Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Phương M, sinh năm 1955.
Địa chỉ: P nhà E, khu đô thị C, Thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng X
Địa chỉ: Số 83A phố L, phường T, quận H, Thành phố Hà Nội
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư
Xem thêm: Tóm tắt và bình luận bản án tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ hình thành trong tương lai
Ngày 09/01/2018:
Căn hộ chung cư số S12101 (Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số S12101/2018/SSC/HĐMBCH ngày 09/01/2018)
Diện tích: 97,60m2
Giá bán (chưa bao gồm thuế GTGT): 3.027.618.168đ
Căn hộ chung cư số S12103 (Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số S12103/2018/SSC/HĐMBCH ngày 09/01/2018)
Diện tích: 85,90m2
Giá bán (chưa bao gồm thuế GTGT): 2.664.676.236đ
Đã thành toán tổng số tiền (đã bao gồm thuế GTGT): 5.938.117.274đ.
Thời hạn bàn giao căn hộ chậm nhất: ngày 30/9/2019 hoặc ngày 30/12/2019.
1. Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn
Yêu cầu:
1. Yêu cầu Công ty X thực hiện các công việc cần thiết để chấm dứt 02 Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số S12101 và S12103.
2. Hoàn trả toàn bộ số tiền bà đã thanh toàn của cả 02 căn hộ là: 5.938.117.274đ
3. Thanh toán tiền phạt vi phạm 8% tổng giá trị của 02 hợp đồng (chưa bao gồm thuế GTGT) tương ứng với số tiền: 464.491.223đ.
4. Thanh toán tiền bồi thường thiệt hại 8% tổng giá trị 02 hợp đồng (chưa bao gồm thuế GTGT) tương ứng với số tiền: 464.491.223đ.
5. Thanh toán tiền lãi phát sinh trên số tiền gốc, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại do chậm thanh toán từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán đến khi bản án có hiệu lực pháp luật: 18.813.972đ (tạm tính đến ngày 12/8/2020)
2. Lập luận
Theo thỏa thuận tại hợp đồng, Công ty X có trách nhiệm bàn giao căn hộ dự kiến vào quý II năm 2019 và không vượt quá 90 ngày kể từ ngày bàn giao dự kiến cuối cùng.
Qua quá trình thi công xây dựng, Công ty X chậm bàn giao căn hộ 180 ngày so với cam kết.
Ngày 10/01/2019, bà đã đề nghị chấm dứt các Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số S12101 và S12103 với lý do:
Dự án chưa đủ điều kiện bàn giao khi quá thời gian bàn giao
Đề nghị công ty X giải quyết quyền lợi cho bà khi đơn phương chấm dứt hợp đồng do lỗi chậm bàn giao nhà.
Theo quy định tại điểm d khoản 12.2 Điều 12 Hợp đồng mua bán căn hộ thì trong trường hợp Bên Mua đơn phương chấm dứt hợp đồng này thì Bên Bán phải hoàn trả cho Bên Mua những khoản mà điều khoản trong hợp đồng đã quy định.
Sau 30 ngày kể từ ngày đề nghị chấm dứt hợp đồng, bà nhiều lần liên hệ yêu cầu Công ty X chấm dứt các Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, thực hiện nghĩa vụ có liên quan, nhưng công ty không thực hiện và không đưa ra bất kỳ kế hoạch giải quyết yêu cầu của bà.
Bà M nhiều lần liên hệ yêu cầu công ty X chấm dứt các HĐ mua bán căn hộ chung cư
3. Cơ sở pháp lý
Điểm d khoản 12.2 Điều 12 Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư.
Lập luận:
Xác nhận việc ký hợp đồng giữa công ty X và bà M.
Xác nhận công ty X chậm bàn giao nhà.
Bà M không có thiện chí nhận căn hộ.
Chủ đầu tư đồng ý chấm dứt hợp đồng.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M: chấm dứt hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số S12101 và S12103.
Ghi nhận sự tự nguyện của các bên đương sự về việc giải quyết một phần vụ án:
Công ty X đồng ý thanh toán cho bà M số tiền mà bà đã mua 02 căn hộ, tổng là: 5.938.117.274đ.
Công ty X đồng ý thanh toán tiền phạt vi phạm 8% tổng giá trị của mỗi hợp đồng, tổng là: 464.491.223đ.
Không chấp nhận yêu cầu của bà M về việc thanh toán các khoản tiền:
Thiệt hại về công năng sử dụng: đối với căn S12101 là 648.000.000đ; đối với căn S12103 là 540.000.000đ
Thiệt hại trong việc thanh toán số tiền lãi suất hàng tháng đối với khoản vay tại ngân hàng Sacombank của căn S12101 là 74.890.536đ, cưa căn S12103 là 121.153.084đ.
Tiền phạt do thanh toán khoản vay trước hạn đối với căn S12101 là 46.000.000đ, căn S12103 là 36.000.000đ.
Thanh toán tiền lãi phát sinh trên số tiền gốc, tiền phạt vi phạm hợp đồng, tiền phạt thanh toán khoản vay trước hạn, tiền bồi thường thiệt hại do chậm thanh toán từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán đến ngày xét xử, đối với căn S12101 là 1.128.779.343đ, căn S12103 là 998.990.421đ.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà M và ông Nguyễn Ngô V; sửa Bản án sơ thẩm:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M:
Chấm dứt 02 Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư
Công ty X phải thanh toán cho bà M số tiền mà bà đã mua 02 căn hộ: 5.938.117.274đ
Công ty X phải thanh toán cho bà M số tiền phạt vi phạm 16% tổng giá trị hợp đồng: 928.902.445đ.
Không chấp nhận các yêu cầu khác của bà M về việc thanh toán các khoản tiền sau:
Yêu cầu bồi thường tiền lãi, tiền phạt cho khoản vay ngoài để thanh toán 95% giá trị hợp đồng.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
Yêu cầu tính lãi các khoản tiền gốc đã thanh toán, tiền phạt vi phạm hợp đồng.
🡪 Tổng số tiền không được chấp nhận là 6.558.274đ
Xét về tố tụng: Hội đồng xét xử xác định đơn kháng cáo của bà M và ông V đảm bảo về chủ thể, hình thức, nội dung và trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Theo chúng tôi, nhận định trên của Hội đồng xét xử là vô cùng hợp lý và hợp pháp. Bởi lẽ, bà M và ông V đã thực hiện thủ tục kháng cáo đúng theo quy định về chủ thể, hình thức, nội dung, thời hạn kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Theo đó:
a. Chủ thể có quyền kháng cáo bao gồm:
Theo Điều 271 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 271. Người có quyền kháng cáo
Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.”
Ngoài ra, chủ thể kháng cáo còn phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:
Người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Nếu người này không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức có thể tự mình làm đơn kháng cáo.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo.
Việc ủy quyền phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công.
b. Nội dung của đơn kháng cáo bao gồm:
Theo khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định về nội dung chính của đơn kháng cáo như sau:
“a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo;
c) Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.”
Ngoài ra, tại khoản 7 Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định:
“7. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật này.”
c. Thời hạn kháng cáo
Theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 273. Thời hạn kháng cáo
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này.
3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.”
Theo đó, Tòa án nhân dân quận H đã xét xử vụ án ngày 14/9/2022. Sau phiên tòa sơ thẩm, ngày 21/9/2022, Tòa án nhân dân quận H đã nhận được đơn kháng cáo của bà M và ông V; dấu bưu điện nơi gửi đi đề ngày 20/9/2022. Như vậy, theo khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, bà M và ông V đã gửi đơn kháng cáo trong thời hạn mà luật quy định, tức 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 14/9/2022.
Bà M và ông V đã gửi đơn kháng cáo trong thời hạn mà Pháp luật quy định
Xét về kháng cáo của bà M và ông V
a. Yêu cầu chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư và đòi số tiền gốc
Theo đó, bà M kháng cáo về việc Công ty X đã huy động và sử dụng vốn của bà trái phép, vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 8 Luật Kinh doanh bất động sản và Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên, vì giữa bà M và Công ty X đã đồng ý chấm dứt Hợp đồng mua bán 02 căn hộ chung cư nên Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu kháng cáo này.
Theo chúng tôi, nhận định trên của Hội đồng xét xử là đúng với quy định pháp luật. Bởi vì bị đơn đã đồng ý chấm dứt 02 hợp đồng mua bán căn hộ, hoàn trả số tiền đã thanh toán mua căn hộ và đồng ý trả số tiền phạt vi phạm hợp đồng 8% đối với 02 căn hộ tại buổi hòa giải ngày 29/7/2022. Cho nên, vấn đề trên sẽ không đem ra xét xử tại phiên tòa Sơ thẩm.
Đồng thời, theo Điều 270 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định, tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Mà vấn đề trên đã được giải quyết tại buổi hòa giải, không còn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Chính vì thế, về cơ bản, yêu cầu trên sẽ không được xét xử phúc thẩm. Cho nên, việc Hội đồng thẩm phán không xem xét yêu cầu kháng cáo này là vô cùng hợp lý và đúng quy định pháp luật.
b. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do phải trả lại suất hàng tháng đối với khoản vay cho căn hộ 1.441.793.628đ
Hội đồng xét xử cho rằng việc công ty X chậm bàn giao nhà hay không thì bà M vẫn phải trả tiền lãi vay, tiền phí cho Sacombank. Đồng thời, khoản vay này không liên quan đến Công ty X. Mặt khác, các bên cũng không có thỏa thuận về việc Công ty X có nghĩa vụ thanh toán cho bà M khi phát sinh các khoản vay. Ngoài ra, việc bà M vay tiền hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện, thống nhất ý chí giữa bà và ngân hàng Sacombank, Công ty X không có lỗi trong quan hệ vay nợ này. Cho nên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này.
Theo chúng tôi, nhận định trên là hoàn toàn hợp lý. Vì quan hệ vay nợ giữa bà M và ngân hàng Sacombank phát sinh không liên quan đến Công ty X. Mối quan hệ này phát sinh từ sự tự nguyện, thống nhất của cả hai bên, không liên quan đến Công ty X. Ngoài ra, trong hợp đồng cũng không có ghi nhận bất kỳ nghĩa vụ nào của Công ty X đối với khoản vay nợ trên. Chính vì thế, Công ty X không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và cả ngoài hợp đồng cho bà M theo quy định về trách nhiệm bồi thường trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Cho nên, nhận định của Hội đồng xét xử là phù hợp với pháp luật.
c. Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong khoảng thời gian từ ngày 29/9/2019 đến 29/03/2023 (42 tháng) nếu không có hành vi vi phạm chậm bàn giao căn hộ của Công ty X
Theo đó, Hội đồng xét xử nhận định rằng yêu cầu bồi thường của bà M là không có cơ sở bởi vì căn hộ chưa được bàn giao thì bà M chưa thể ký hợp đồng cho thuê được. Mặt khác, bà M cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc bà M cho thuê với người khác sau khi ký hợp đồng mua bán này. Cho nên, việc đầu tư vào căn hộ là chưa có, đồng nghĩa là việc thiệt hại thực tế chưa xảy ra.
Theo chúng tôi, nhận định của Hội đồng xét xử là vô cùng hợp lý và hợp pháp. Xét về bản chất, thiệt hại được yêu cầu bồi thường phải là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, thiệt hại này phải xác định được, đo lường được theo quy định tại Điều 360 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài ra, bà M cũng không chứng minh được việc bà cho người khác thuê căn hộ sau khi ký kết hợp đồng mua bán căn hộ chung cư này. Chính vì thế, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này là hợp lý và hợp pháp.
d. Xét yêu cầu tính lãi của các khoản tiền gốc đã thanh toán, tiền phạt vi phạm hợp đồng với số tiền 2.080.844.512đ
Hội đồng xét xử xét thấy tại điểm d Điều 12.2 của Hợp đồng mua bán 02 căn hộ chung cư có quy định: “Trong trường hợp Bên Mua đơn phương chấm dứt Hợp đồng… Bên Bán phải hoàn trả cho Bên Mua: (i) toàn bộ số tiền mà Bên mua đã thanh toán (khoản thanh toán này không tính lãi)…”. Chính vì thế, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu trên.
Theo chúng tôi, giao dịch dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, cho nên khi các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì phải tuân thủ theo những thỏa thuận đó (nếu thỏa thuận đó không trái quy định pháp luật). Cho nên, trường hợp trong điều khoản hợp đồng của các bên không có quy định liên quan đến tính lãi toàn bộ số tiền mà Bên mua đã thanh toán thì bên mua cũng không có cơ sở để yêu cầu bên bán trả tiền lãi phát sinh từ các khoản tiền gốc đã toán. Cho nên, nhận định của Hội đồng xét xử là đúng pháp luật.
e. Xét yêu cầu thanh toán tiền phạt vi phạm 16% tổng giá trị hợp đồng (chưa bao gồm thuế GTGT) đối với 02 căn hộ và tiền phạt vi phạm 8% tổng giá trị hợp đồng (chưa bao gồm thuế GTGT) đối với 02 căn hộ
Hội đồng xét xử nhận thấy bà M không nhận được nhà, không nhận được tiền đã thanh toán cho Công ty X gây ra các thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho bà do hành vi chậm bàn giao nhà của Công ty X. Ngoài ra, hai bên chưa thống nhất được mức phạt vi phạm. Cho nên, căn cứ vào quy định trong Hợp đồng mua bán 02 căn hộ chung cư thì mức phạt hai bên ấn định bằng 16% tổng giá trị Hợp đồng.
Do đã áp dụng mức phạt bằng 16% tổng giá trị Hợp đồng, nên mức phạt bằng 8% tổng giá trị Hợp đồng sẽ không được áp dụng.
Theo chúng tôi, Hội đồng xét xử áp dụng mức phạt bằng 16% tổng giá trị Hợp đồng thay vì mức phạt bằng 8% tổng giá trị Hợp đồng là đúng quy định pháp luật. Bởi vì các bên đã thỏa thuận mức phạt trong Hợp đồng là 16%. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 16 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 thì mức phạt sẽ do các bên thỏa thuận và phải ghi rõ trong hợp đồng. Cho nên, việc áp dụng mức phạt bằng 16% tổng giá trị Hợp đồng là hoàn toàn phù hợp. Chính vì thế, mức phạt 8% sẽ không được áp dụng bởi lẽ do các bên không có thỏa thuận về mức phạt này.
Vụ án này được đưa ra xét xử trong giai đoạn năm 2022-2023, Tòa án đã xem xét các yếu tố pháp lý và thực tiễn dựa trên Luật định trước đó là: Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Nhà ở năm 2014; Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến vụ việc trên.
Hội đồng xét xử Sơ thẩm đã công nhận sự thỏa thuận giữa các bên tại phiên hòa giải. Sự thỏa thuận này hoàn toàn dựa trên ý chí tự nguyện của các bên và không trái quy định của luật, không trái với đạo đức xã hội. Đối với phần hòa giải không thành, Hội đồng xét xử chấp thuận một phần yêu cầu và không chấp thuận một phần yêu cầu của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử Phúc thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo và không chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo. Phán quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành.
Về án phí dân sự sơ thẩm, do bà M là người cao tuổi theo luật định và có đơn yêu cầu xin miễn án phí nên được miễn án phí dân sự. Còn Công ty X phải chịu án phí trên tổng số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn.
Về án phí dân sự phúc thẩm, do bản án sơ thẩm bị sửa nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Do bản án sơ thẩm bị sửa nên người kháng cáo sẽ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
Cần kiểm tra pháp lý dự án, các giấy tờ như giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tra cứu thông tin về chủ đầu tư và năng lực tài chính.
Cần quy định rõ ràng các điều khoản trong hợp đồng, nhất là các điều khoản về phạt vi phạm do chậm bàn giao nhà, mức phạt đối với việc chậm bàn giao nhà, các điều khoản về bồi thường thiệt hại (nếu có)…
Cần thiết có thể nhờ Luật sư kiểm tra hợp đồng và các điều khoản chi tiết nhất theo hướng có lợi cho người mua. Liên hệ ngay tư vấn pháp luật nhà đất LHLegal nếu Quý khách hàng cần tư vấn pháp lý hay cần Luật sư của chúng tôi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Đảm bảo tính pháp lý của dự án: Hoàn thiện đầy đủ các thủ tục pháp lý trước khi triển khai bán dự án.
Lập kế hoạch tài chính chi tiết và thực tế để dự phòng nguồn vốn để ứng phó với rủi ro.
Đảm bảo hợp đồng mua bán tuân thủ quy định pháp luật và thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng; Có chính sách bồi thường rõ ràng.
Cần thỏa thuận rõ ràng các điều khoản trong hợp đồng, nhất là các điều khoản về phạt vi phạm do chậm bàn giao nhà, mức phạt đối với việc chậm bàn giao nhà, các điều khoản về bồi thường thiệt hại (nếu có)…
Bản án tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư là minh chứng cho sự rõ ràng trong thỏa thuận giữa các bên. Có thể thấy, khi các bên có thỏa thuận đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng mua bán thì tranh chấp cũng sẽ được giải quyết nhanh chóng hơn, tránh mất thời gian cho các bên. Chính vì thế, khi giao kết các hợp đồng mua bán căn hộ chung cư nói riêng và hợp đồng mua bán nói chung, cần thiết phải thỏa thuận đầy đủ các điều khoản có liên quan trong hợp đồng, từ đó tránh được nhiều rủi ro, tranh chấp pháp lý về sau.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
Số 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: 1900 2929 01
Số 7 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, TP. Nha Trang
Điện thoại: 1900 2929 01