Đề xuất sửa đổi bổ sung một số điều của luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) Ngân hàng được thu giữ tài sản bảo đảm dù không có thỏa thuận

>>> Ngân hàng khó bán đấu giá tài sản dù đã “Đại hạ giá” nhiều lần - Nguyên nhân và giải pháp

>>> Quy định về thế chấp bất động sản và việc xử lý tài sản thế chấp trong hợp đồng tín dụng ngân hàng

Đề xuất này đánh dấu một bước chuyển dịch đáng kể so với quy định hiện hành, mở ra nhiều vấn đề pháp lý cần xem xét để đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi của tổ chức tín dụng và bên vay, trong bối cảnh nợ xấu vẫn là bài toán nan giải của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Cơ sở pháp lý và bối cảnh thực tiễn

Theo Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm chỉ được thực hiện nếu có thỏa thuận trước trong hợp đồng bảo đảm hoặc thông qua phán quyết của tòa án, trừ trường hợp luật chuyên ngành quy định khác.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quy trình này thường kéo dài và phức tạp, đặc biệt khi bên vay không hợp tác hoặc cố ý tẩu tán tài sản. Báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng vẫn ở mức đáng lo ngại, đòi hỏi một cơ chế pháp lý linh hoạt hơn để xử lý hiệu quả.

Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) đề xuất bỏ điều kiện phải có thỏa thuận thì tổ chức tín dụng mới được thu giữ tài sản bảo đảm, đề xuất này cho phép ngân hàng được quyền tự mình thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngay cả khi hợp đồng bảo đảm không có điều khoản thỏa thuận về việc này. Mục tiêu của đề xuất là rút ngắn thời gian xử lý nợ, giảm thiểu chi phí tố tụng và tăng cường khả năng thu hồi vốn của các tổ chức tín dụng, từ đó góp phần ổn định hệ thống tài chính.

Phân tích pháp lý của đề xuất

Đề xuất này, dù mang tính thực tiễn cao, đặt ra một số vấn đề pháp lý quan trọng cần được đánh giá kỹ lưỡng:

1. Mâu thuẫn với nguyên tắc quyền sở hữu tài sản: Điều 32 Hiến pháp 2013 và Bộ luật Dân sự 2015 khẳng định: quyền sở hữu là quyền cơ bản, chỉ có thể bị hạn chế trong các trường hợp luật pháp quy định rõ ràng. Việc cho phép ngân hàng tự thu giữ tài sản mà không qua thỏa thuận hoặc phán quyết tòa án có thể bị coi là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bên bảo đảm, dẫn đến nguy cơ phát sinh tranh chấp và khiếu kiện. Quyền tài sản quy định tại Bộ luật Dân sự.

2. Rủi ro lạm quyền của ngân hàng: Nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, việc trao quyền chủ động thu giữ tài sản có thể dẫn đến tình trạng ngân hàng lạm dụng quyền hạn, đặc biệt trong các trường hợp tranh chấp về nghĩa vụ nợ chưa được làm rõ. Điều này có thể gây thiệt hại cho bên vay và làm suy giảm niềm tin vào hệ thống tín dụng.

3. Cân bằng lợi ích giữa các bên: Quy định mới cần đảm bảo không làm nghiêng cán cân lợi ích quá mức về phía tổ chức tín dụng, trong khi vẫn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên vay. Thiếu các điều kiện cụ thể và minh bạch, đề xuất này có thể gây ra phản ứng tiêu cực từ dư luận và ảnh hưởng đến sự công bằng trong quan hệ dân sự.

Về vấn đề này, trước đây Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42/2017/NQ-QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, trong đó ghi nhận 1 số quyền của Tổ chức tín dụng để xử lý khoản nợ xấu đối với các khoản nợ xấu trước ngày 15/8/2017; khoản nợ được hình thành trước ngày 15/8/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực. Hiện Nghị quyết này vẫn đang được duy trì hiệu lực theo Nghị quyết số 148/NQ-CP ngày 20/09/2023. Theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/NQ-QH14, Ngân hàng có thể tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần có sự đồng ý của bên thế chấp, bên vay nếu đáp ứng các điều kiện sau:

a) Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự;

b) Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật;

c) Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật;

d) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật;

đ) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều này.

Như vậy, quy định trên đảm bảo quyền lợi của cả hai bên: bên thế chấp/bên vay và Tổ chức tín dụng, việc thu giữ tài sản bảo đảm phải được thỏa thuận cụ thể tại Hợp đồng bảo đảm (tức bên vay biết và đồng ý tại Hợp đồng bảo đảm) thì Ngân hàng mới được quyền thu giữ.

Trình tự thủ tục thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm 

Thực tế không ít trường hợp bên vay, bên thế chấp không hợp tác để bàn giao tài sản bảo đảm cho Ngân hàng do nhiều lý do, có thể kể đến như tranh chấp xác định nợ, giá trị tài sản bảo đảm Ngân hàng dự kiến sẽ áp dụng để xử lý,.... 

Mặt khác, Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.” Theo đó, nếu bên vay, bên thế chấp không hợp tác bàn giao tài sản bảo đảm, Ngân hàng phải thực hiện thủ tục khởi kiện tại Tòa án để công nhận quyền xử lý tài sản bảo đảm, lúc này Cơ quan thi hành án là người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tài sản đối với bên vay, bên thế chấp. 

Như vậy, việc Ngân hàng tự ý thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm mà không được sự đồng ý của bên vay, bên thế chấp sẽ có nguy cơ cao phát sinh tranh chấp, bên mua tài sản bảo đảm cũng bị ảnh hưởng khi không thể nhận và sử dụng tài sản do có tranh chấp liên quan. 

Ngoài ra, quá trình thu giữ tài sản bảo đảm nếu không có sự tham gia của cơ quan thi hành án, công an khu vực sẽ dễ xảy ra sự việc Ngân hàng xâm phạm trái phép đến tài sản thuộc sở hữu của bên thế chấp, bên vay.

Định hướng hoàn thiện khung pháp lý

Để đề xuất này khả thi và phù hợp với nguyên tắc pháp quyền, cần xem xét các giải pháp bổ sung sau:

  • Xác định điều kiện cụ thể để thu giữ tài sản: Quy định rõ các trường hợp ngân hàng được phép thu giữ tài sản trong Hợp đồng bảo đảm, chẳng hạn như khi bên vay không thanh toán nợ gốc và lãi quá hạn trên 90 ngày, kèm theo chứng cứ rõ ràng về nghĩa vụ nợ. Đồng thời, yêu cầu ngân hàng phải thông báo trước cho bên bảo đảm trong một khoảng thời gian hợp lý (ví dụ: 15-30 ngày) trước khi thực hiện thu giữ.

  • Thiết lập cơ chế giám sát và bảo vệ quyền lợi bên vay: Cần quy định đảm bảo phối hợp với các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan thi hành án, chính quyền địa phương) để cùng tham gia giám sát, đảm bảo quyền lợi của các bên trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Trường hợp vi phạm thì bên thế chấp có quyền được khiếu nại, khởi kiện để giải quyết tranh chấp nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro lạm quyền và đảm bảo quyền lợi của bên bảo đảm được xem xét công bằng.

  • Việc điều chỉnh quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng cần được nêu cụ thể tại Luật các tổ chức tín dụng và phải đảm bảo thống nhất với các quy định hiện hành: Việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng cần đồng bộ với Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản pháp luật liên quan, tránh mâu thuẫn hoặc chồng chéo trong áp dụng.

  • Thiết lập các quy định cụ thể về trách nhiệm của Ngân hàng khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

Cần quy định rõ thủ tục, trình tự để Ngân hàng thu giữ tài sản bảo đảm (nghĩa vụ xác định nợ thuộc trường hợp thu giữ, nghĩa vụ thông báo, trao đổi phương án xử lý nợ với bên thế chấp, bên vay, nghĩa vụ công khai các thông tin khi thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm, đảm bảo giá bán tài sản bảo đảm tuân thủ nguyên tắc thị trường,....). 

Đề xuất cho phép ngân hàng thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần thỏa thuận trước là một giải pháp tiềm năng nhằm tăng cường hiệu quả xử lý nợ xấu và bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tín dụng trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hợp pháp, minh bạch và công bằng, cần xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ với các điều kiện rõ ràng và cơ chế giám sát hiệu quả. Đây sẽ là nội dung quan trọng cần được Quốc hội và các cơ quan chức năng thảo luận kỹ lưỡng trong quá trình xem xét dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), nhằm đạt được sự cân bằng giữa lợi ích của ngân hàng và quyền lợi hợp pháp của người dân.

Trụ sở

Số 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM

Điện thoại: 1900 2929 01

Chi nhánh Nha Trang

Số 7 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, TP. Nha Trang

Điện thoại: 1900 2929 01

Đăng ký tư vấn Tính án phí