Một trong những bản án điển hình liên quan đến khiếu kiện quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi thường và giải quyết khiếu nại là Bản án số 427/2019/HC-PT ngày 09/07/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Bản án này không chỉ phản ánh quá trình giải quyết tranh chấp giữa người dân và chính quyền địa phương mà còn giúp làm rõ các quy định pháp luật về đất đai, quyền khiếu nại, tố tụng hành chính và nguyên tắc bồi thường khi thu hồi đất. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích nội dung bản án, các quy định pháp luật liên quan cũng như bài học rút ra từ vụ việc để giúp cá nhân và tổ chức hiểu rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm khi đối diện với quyết định thu hồi đất của Nhà nước.
>>> Tóm tắt và bình luận bản án số 34/2024/HS-ST ngày 26/04/2024 về tội gây rối trật tự công cộng
A. Tóm tắt vụ án
Người khởi kiện:
Ông Trần Văn H, sinh năm 1958.
Địa chỉ: Số 3/31 khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Người bị kiện:
-
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Địa chỉ: Trung tâm hành chính tỉnh B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
-
Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Địa chỉ: Phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
-
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Địa chỉ: Phường UU, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà Hà Thị P, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Số 3/31 khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương
Người khởi kiện ông Trần Văn H có kháng cáo.
Xem chi tiết Bản án số 427/2019/HC-PT ngày 09/07/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và giải quyết khiếu nại tại đây
Nội dung vụ án:
Ngày 13/10/2011, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 2998/QĐ-UBND phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh.
Ngày 03/10/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 9858/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại có kèm theo phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư dự án trên.
Ngày 13/8/2012, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên lập biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H.
Ngày 23/8/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H không đồng ý với các quyết định này.
Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND cho ông Trần Văn Hai.
Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định này, ông có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đến UBND thị xã T.
Ngày 29/5/2015, UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H, cho rằng Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ đúng trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường. Không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD nên ông Trần Văn H tiếp tục khiếu nại đến UBND thị xã T yêu cầu hủy bỏ Công văn số 3131/UBND-TD, đồng thời yêu cầu UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng quy định của pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương. Ngày 30/12/2015, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD.
Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên nên ngày 11/10/2017 ông Trần Văn H khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh B.
Ngày 11/10/2017, chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, với nội dung:
Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi.
Ông Trần Văn H khởi kiện lên yêu cầu Tòa án hủy các Quyết định hành chính sau: Quyết định số 8493/QĐ-UBND, Quyết định số 10492/QĐ-UBND, Quyết định số 3131/UBND-TD, Quyết định số 6465/QĐ-UBND, Quyết định số 2731/QĐ-UBND;
B. Phân tích bản án
Nhận định của hội đồng xét xử
Toà án nhận định: Trong trường hợp này, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên không “gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” đến ông Trần Văn H là người có đất bị thu hồi mà chỉ mời ông H đến UBND xã Khánh Bình để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi” và khoản 2 Điều 93 quy định “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Như vậy có căn cứ pháp lý để xem xét xác định việc ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định như trên là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H.
Phán quyết của hội đồng xét xử
Quyết định chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương.
2. Hủy các Quyết định hành chính sau:
-
Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;
-
Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
-
Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;
-
Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);
-
Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).
Về án phí:
Án phí sơ thẩm: Người bị kiện mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.
Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0026781 ngày 25/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ tuyên án.
Cơ sở pháp lý:
Khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.
Căn cứ vào các Điều: 30, 32, khoản 2 Điều 79, 116, 134, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 164, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 41, 42 của Luật Đất đai năm 2003; khoản 2, Điều 14, Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ; khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
C. Bài học rút ra từ vụ án so với quy định pháp luật, có khuyến nghị.
Tầm quan trọng của chứng cứ chứng minh trong vụ án dân sự
Nguyên đơn – ông T1, T2 khởi kiện cho rằng 03 hợp đồng chuyển nhượng vốn góp (ông T2 ký thay T1 theo Giấy uỷ quyền) thì ông T2 và ông T1 đã ký nhận đủ tiền chuyển nhượng theo hợp đồng nhưng thực tế bị đơn – bà D, bà T3 mới thanh toán cho ông T1, T2 60.000.000 đồng, còn nợ 480.000.000 đồng.
Nguyên đơn kiện nhưng không có đủ chứng cứ chứng minh xác đáng cho yêu cầu của mình dẫn đến thu kiện. Ngược lại, bị đơn ở thế bị động, tuy nhiên có chứng cứ chứng minh như email, hợp đồng, bản ghi âm,… thể hiện nguyên đơn và bị đơn đã thoả thuận rằng nguyên đơn chuyển nhượng cho bị đơn 60% phần vốn góp với tổng giá trị 120.000.000 đồng và nguyên đơn cũng nhận đủ 120.000.000 đồng từ bị đơn, chứng minh được nội dung bị đơn trình bày là sự thật.
Vấn đề hợp đồng giả tạo
Toà án cho rằng yêu cầu của nguyên đơn – yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn lại tổng cộng 480.000.000 đồng theo hợp đồng ngày 21/4/2017 là không có cơ sở chấp nhận.
Tác giả đồng tình với hướng giải quyết của tòa. Tuy nhiên, quan điểm tác giả nhìn nhận vụ việc trên là có liên quan trực tiếp đến vấn đề hợp đồng giả tạo (hay hợp đồng giả cách) để che giấu một hợp đồng khác.
Căn cứ theo Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Cụ thể, nguyên đơn và bị đơn ký kết 03 hợp đồng thể hiện giá trị chuyển nhượng phần vốn góp tổng cộng là 600.000.000 đồng, thế nhưng 03 bản hợp đồng trên có yếu tố giả tạo, không trung thực về giá trị chuyển nhượng phần vốn góp. Theo các chứng cứ chứng minh thì hợp đồng mà hai bên thực sự thỏa thuận là nguyên đơn chuyển nhượng cho bị đơn tổng cộng 60% phần vốn góp với giá trị 120.000.000 đồng. Căn cứ Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự có yếu tố giả tạo, hướng xử lý cho trường hợp này là công nhận hiệu lực của hợp đồng bị che giấu và tuyên hợp đồng có yếu tố giả tạo là vô hiệu – các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Theo những tình tiết trong bản án trên, nguyên đơn chuyển nhượng 60% phần vốn góp cho bị đơn, bị đơn cũng thanh toán đủ số tiền 120.000.000 đồng như thỏa thuận của hai bên, thủ tục đăng ký thay đổi thành viên góp vốn đã được thực hiện xong. Còn hợp đồng được ký kết ngày 21/4/2017 là hợp đồng có yếu tố giả tạo nên vô hiệu.
Từ vụ việc trên, kinh nghiệm chung cho các bên là giao kết hợp đồng phải minh bạch, rõ ràng để tránh xảy ra tranh chấp về sau, các bên cần tránh giao kết các hợp đồng có yếu tố giả tạo, đồng thời thu thập, lưu giữ tài liệu chứng cứ để tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Theo pháp luật hiện hành, việc giải quyết tranh chấp căn cứ vào tất cả các chứng cứ mà các bên cung cấp, thu thập được: là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục hợp pháp, đều được toà sử dụng làm căn cứ để giải quyết tranh chấp (Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nếu có đầy đủ chứng cứ chứng minh hợp đồng là giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu(Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Bản án 427/2019/HC-PT ngày 09/07/2019 là một minh chứng quan trọng, góp phần làm rõ các quy định pháp luật về thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất của người dân. Vụ án này thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cơ quan hành chính trong việc ban hành quyết định thu hồi đất đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.
Thông qua bản án này, có thể rút ra những bài học quan trọng về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất khi bị thu hồi, cũng như cách thức khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính nếu có căn cứ cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm. Đối với cơ quan nhà nước, vụ án cũng là lời nhắc nhở về tính minh bạch, công khai và công bằng trong quá trình thu hồi đất và bồi thường, tránh các sai sót dẫn đến khiếu kiện kéo dài.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự