>>> Đất đang tranh chấp có được phép chuyển nhượng sang tên không?
>>> Pháp luật quy định như thế nào về đứng tên nhà đất giùm?
Tóm tắt vụ việc
Bà Nguyễn Thị Nhụy (trú tổ 12, phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy) có đơn tố giác về việc ông Nguyễn Văn Ngọc – Giám đốc công ty TNHH Đại Ngọc (sinh năm 1974, trú phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy) về hành vi nhận làm sổ đỏ giúp rồi đem bán gần 1.500m2 đất của gia đình bà Nhụy.
Theo như báo chí đưa tin, gia đình bà Nhụy có mua thửa đất với diện tích hơn 2.500m2 tại mặt tiền đường Dạ Lê từ năm 2000.
Năm 2021, bà Nhụy có nhờ ông Ngọc làm giúp sổ đỏ thừa đất trên cùng với một thửa đất khác. Bà Nhụy thỏa thuận với ông Ngọc rằng sau khi làm sổ đỏ cho 2 thửa đất kia, bà sẽ cho ông Ngọc 20m mặt tiền (tương đương khoảng 600m2) tại thửa đất hơn 2.500m2.
Ông Ngọc đã tiến hành làm sổ đỏ cho thửa đất hơn 2.500m2 của bà Nhụy đứng tên vợ chồng ông Ngọc. Sau đó, ông tách thửa đất thành 2 thửa, gồm thửa số 208 có diện tích 600m2 và thửa số 209 có diện tích 1.499,2m2. Tuy nhiên, ông Ngọc đã không đưa lại sổ đỏ cho gia đình bà Nhụy mà đem bán thửa đất số 209 có diện tích 1.499,2m2 cho một người khác.
Sau khi phát hiện hành vi trái pháp luật của ông Ngọc, bà Nhụy đã có đơn tố giác ông Ngọc về hành vi trên. Ngày 15/1/2025, Công an thị xã Hương Thủy, TP. Huế đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với ông Ngọc để điều tra hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Phân tích pháp lý
Quy định pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản
Căn cứ theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản.
Hành vi cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản
Để cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cần phải thỏa mãn đủ các yếu tố sau:
Khách thể: xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Đối tượng tác động là tài sản.
Liên hệ vụ việc trên, ông Ngọc đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bà Nhụy, thông qua việc chiếm đoạt gần 1.500m2 đất của gia đình bà Nhụy.
Mặt khách quan: hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản một cách ngay thẳng, hợp pháp thông qua một hợp đồng bằng miệng hoặc văn bản nhằm chiếm đoạt tài sản đã nhận bằng 01 trong 04 thủ đoạn sau:
-
Gian dối để chiếm đoạt tài sản;
-
Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng trả lại tài sản nhưng cố tình không trả;
-
Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản;
-
Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không còn khả năng để trả lại tài sản.
Bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản là 1 trong 4 thủ đoạn của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Đây là tội phạm có cấu thành vật chất và được cấu thành khi chiếm đoạt từ 4.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nếu có 01 trong các tình tiết như:
-
Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội sau, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm: Tội cướp tài sản (Điều 168); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); Tội cướp giật tài sản (Điều 171); Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290).
-
Tài sản chiếm đoạt là tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Liên hệ vụ việc trên, ông Ngọc đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được thể hiện qua việc ban đầu ông Ngọc thỏa thuận với bà Nhụy việc ông sẽ làm giúp bà sổ đỏ của 2 thửa đất do gia đình bà sở hữu; sau khi thực hiện xong, bà Nhụy sẽ cho ông Ngọc 20m mặt tiền (tương đương khoảng 600m2) tại thửa đất hơn 2.500m2. Tuy nhiên, sau khi thực hiện việc cấp sổ đỏ thì ông Ngọc đã có hành vi cố tình không trả và đem bán thửa đất gần 1.500m2 cho người khác.
Ông Ngọc đã cố tình không trả và đem bán thửa đất gần 1.500m2 cho người khác
Mặt chủ quan: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm đối với xã hội, nhìn thấy trước được hậu quả nhưng vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục đích của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản.
Theo vụ việc trên, ông Ngọc nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là hành vi trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy trước hậu quả nhưng vẫn chọn thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra.
Chủ thể: Chủ thể của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo nguồn báo đưa tin, ông Ngọc sinh năm 1974 nên ông đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự với tội danh này. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, ông Ngọc đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Như vậy, xét 04 yếu tố trên, có thể kết luận ông Ngọc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Ngoài ra, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Đồng thời, người phạm tội này còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Bản án 11/2024/HS-ST ngày 14/03/2024 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Bị cáo: Võ Phạm Long N, sinh năm 1999, nơi cư trú: Khu H, thị trấn C, huyện A, tỉnh B.
Bị hại: Tạ Thúc T, sinh năm 2003, nơi cư trú: Khu D, thị trấn C, huyện A, tỉnh B (vắng mặt).
Xem chi tiết bản án tại đây
Tóm tắt vụ án
Võ Phạm Long N và Tạ Thúc T có quen biết nhau từ trước.
Khoảng 16 giờ ngày 31/8/2023, N đến gặp T hỏi mượn xe máy để đi lấy tiền, khoảng 10 phút sau sẽ trả. T đồng ý cho N mượn xe mô tô do cha của T đứng tiên. Việc mượn xe chỉ thông qua lời nói chứ không có giấy tờ hay hợp đồng gì. Sau khi mượn được xe, N điều khiển xe đi lấy tiền nhưng không lấy được tiền, nên N đến quán “C” uống cafe. Khi uống xong, N không có tiền trả nên đã nói với S (chủ quán “C”) cho N cầm cố chiếc mô tô giá 2.000.000 đồng rồi hẹn S qua ngày hôm sau trả. S tin tưởng nên cho đưa N số tiền là 1.963.000 đồng (sau khi trừ 37.000 đồng tiền cafe). Một lúc sau, N quay lại bảo S đưa thêm 1.000.000 đồng và bảo ghi vào xe mô tô đã cầm cố.
Sau khi không thấy N trả xe nên T đã liên lạc để đòi lại, nhưng N không trả lời. Đến ngày 01/9/2023, T tiếp tục nhắn tin cho N đòi xe thì N nói đang cầm cố tại chỗ S và mượn T 2.000.000 đồng để lấy xe nhưng T nói không có tiền, bảo N tự đi lấy xe về. Do không có tiền trả nên N trốn tránh không gặp T. Sau khi cha của T phát hiện sự việc, ông đã đến nhà cha của N để nói lại sự việc trên.
Đến trưa ngày 07/9/2023, N gọi bảo cha của T cầm 5.000.000 đồng đến đường Trần Hưng Đạo để chuộc xe. Khoảng 15 giờ cùng ngày, N đến địa điểm đã hẹn và bị Công an thị trấn C bắt giữ.
Nhận định của Tòa án
Truy tố bị cáo Võ Phạm Long N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên cần phải xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật hình sự.
Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Quyết định của Tòa án
Tuyên bố bị cáo Võ Phạm Long N phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Võ Phạm Long N 06 (sáu) tháng tù.
Cơ sở pháp lý:
-
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
-
Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
-
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Nếu bạn có thắc mắc hay câu hỏi gì cần giải đáp hãy liên hệ ngay đến LHLegal, đội ngũ Luật sư giỏi về tranh tụng, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình sự luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn bất kỳ lúc nào.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
Toàn cảnh vụ án Hậu Pháo: Số cựu quan chức vướng lao lý, tài sản bị phong tỏa và thu giữ (21.03.2025)
Hai vợ chồng lĩnh án tù vì trộn hàn the vào giò chả bán ra thị trường (21.03.2025)
Tội trốn thuế bị xử lý thế nào? Trốn thuế gồm những hành vi nào? (21.03.2025)
Phân tích pháp lý vụ hung thủ sát hại 4 người thân "Do quá nghèo" tại Hà Nội (20.03.2025)
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Thiên Minh Đức bị khởi tố, bắt tạm giam (20.03.2025)
Phân tích pháp lý vụ tài xế Mercedes rút kiếm dọa nhân viên môi trường (20.03.2025)
Hiểu rõ về tội nhận hối lộ: Phân tích chi tiết theo bộ luật hình sự hiện hành (19.03.2025)
Tất tần tật về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ A đến Z (Cập nhật 2025) (19.03.2025)