Hình phạt đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên không gian mạng

>>> Mức bồi thường do xúc phạm danh dự nhân phẩm

>>> Vu khống xúc phạm người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là gì?

Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là hành vi dùng lời nói, chữ viết, hình ảnh hoặc các phương tiện khác đưa ra thông tin sai sự thật, bịa đặt hoặc lời lẽ thô tục nhằm xúc phạm, hạ thấp giá trị con người, làm mất sự tôn trọng của xã hội đối với một cá nhân, tổ chức. Theo Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015, danh dự, nhân phẩm, uy tín là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; cá nhân có quyền yêu cầu bác bỏ thông tin sai sự thật, buộc xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. Đồng thời, Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thiệt hại do xâm phạm gồm chi phí khắc phục, thu nhập bị mất hoặc giảm sút, cùng khoản bồi thường tinh thần tối đa đến 10 lần mức lương cơ sở. Trong trường hợp nghiêm trọng, hành vi này còn có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 155, 156 Bộ luật Hình sự 2015.

Cảnh báo những hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm uy tín của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng 

Các hành vi tự ý sử dụng, đăng tải, phát tán, lan truyền trái phép trên không gian mạng, bao gồm:  

  • Hành vi tự ý sử dụng, đăng tải, phát tán, chia sẻ các hình ảnh riêng tư, các hình ảnh nhạy cảm, các video nhằm mục đích bêu xấu, bôi nhọ người khác lên các trang mạng xã hội nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm và uy tín của người khác, là hành vi xâm phạm đến quyền của cá nhân, tổ chức đối với hình ảnh.  

  • Hành vi chỉnh sửa, cắt ghép, sử dụng hình ảnh, video của cá nhân, tổ chức để xuyên tạc, làm sai lệch nội dung hoặc sử dụng để quảng cáo, kinh doanh, câu “view” câu “like” mà không được sự cho phép của người đó, gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức  

Quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật dân sự 2015 về quyền của các cá nhân đối với hình ảnh quy định như sau:  

“Điều 32. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh 

1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. 

Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.” 

  • Hành vi thu thập, lưu giữ, sử dụng, đăng tải công khai các thông tin cá nhân, thông tin gia đình và những hình ảnh tin nhắn trao đổi riêng tư của người khác lên các trang mạng xã hội, là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về hình ảnh cá nhân, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, được pháp luật bảo vệ.  

Quy định tại khoản 1 Điều 21 Hiến pháp năm 2013 như sau:

“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.” 

Quy định tại Khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình như sau:  

“Điều 38. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình 

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. 

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.” 

  • Hành vi đăng tải các bài viết “bốc phốt” có nội dung bôi nhọ, vu khống, bịa đặt những thông tin sai sự thật hoặc sử dụng những ngôn từ thô tục nhằm nhục mạ, xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác hoặc có một số đối tượng lợi dụng tính năng bình luận trên các bài viết để đưa những thông tin sai sự thật nhằm công kích, tạo “drama” dẫn dắt, kêu gọi cư dân mạng chĩa hướng xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức.  

Bốc phốt có nội dung bôi nhọ, vu khống là hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm uy tín của người khác

  • Ngoài ra, các đối tượng thường lợi dụng quyền tự do ngôn luận để thực hiện hành vi vi phạm đăng tải các bài viết hoặc lợi dụng chức năng livestream trên các trang mạng xã hội để truyền tải những nội dung thông tin chưa được kiểm chứng, sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, xâm phạm đến quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. 

Quy định tại Điều 20 Hiến pháp 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khẳng định:

“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. 

Quy định tại khoản 3, Điều 16 Luật An ninh mạng 2018 cũng đã xác định cụ thể những thông tin trên không gian mạng bị xem là có nội dung làm nhục, vu khống, cụ thể:  

“Điều 16. Phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế 

3. Thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống bao gồm: 

a) Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; 

b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.” 

Hậu quả pháp lý đối với hành vi vi phạm

Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng cũng như hậu quả do hành vi xâm phạm đến quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng gây ra cần căn cứ vào số lượng người tương tác trên mạng xã hội, mức độ tiếp cận đối với bài viết có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên mạng xã hội, cũng như trang mạng xã hội đó có mức độ lan truyền rộng rãi hay không, để có cơ sở xác định hậu quả pháp lý do hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín gây ra, cụ thể:  

  • Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm có là người sức ảnh hưởng trên các trang mạng xã hội, có mức độ tiếp cận cao (ví dụ: người nổi tiếng, các tiktoker có lượng người theo dõi cao, có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội, ... hoặc các chủ thể là những người có hàng nghìn, hàng triệu lượt theo dõi trên các trang mạng xã hội khác);  

  • Các bài viết có nội dung xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác có lượt tương tác cao như có nhiều lượt yêu thích, lượt chia sẻ và được công đồng mạng liên tục nhắc đến, thậm chí có nhiều cá nhân, tổ chức khác thực hiện đăng tải lại trên nhiều các trang mạng xã hội khác.  

  • Xác định nội dung bài viết có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác hay không, song song đó xem xét các ngôn từ trong bài viết có sử dụng những lời lẽ, từ ngữ thô tục, trái với thuần phong mỹ tục gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.  

Có thể thấy, dư luận xã hội trong trường hợp này là một trong những yếu tố quan trọng để xác định mức độ nghiêm trọng và thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.  

Đồng thời, việc xác định mức độ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cũng sẽ phụ thuộc vào nhận thức người bị hại cũng như các thiệt hại người bị hại phải gánh chịu. Tuy nhiên, việc xác định mức độ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nghiêm trọng là một trong những vấn đề khá phức tạp, vì cùng bị xâm phạm như nhau, có người cảm thấy bản thân mình bị xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, nhưng có người lại không quan tâm.  

Ngoài ra, việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi cần căn cứ vào nhận thức của người phạm tội, tính liên tục của hành vi phạm tội. Ví dụ: Các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm liên tục đăng tải nhiều bài viết có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác và kéo dài trong nhiều ngày, nhằm tấn công liên tục người bị xâm phạm và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần của người bị xâm phạm. 

Do đó, tùy vào mức độ vi phạm và hậu quả tác động đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị hại, mà người thực hiện hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, và bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại theo quy định của pháp luật.  

Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm đến quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng  

Về trách nhiệm hành chính 

Đối với những hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên không gian mạng xã hội chưa đến mức nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình, thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo Điều 101 và điểm e Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ- CP quy định về vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội 

“Điều 101. Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội 

1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau: 

a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; 

.... 

2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. 

3. Biện pháp khắc phục hậu quả: 

Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.” 

“Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin 

3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: 

e) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật;” 

Người lưu trữ, chia sẻ thông tin giả mạo có thể bị phạt từ 10 - 20 triệu đồng

Bên cạnh việc xử lý vi phạm hành chính, thì còn có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc chủ thể thực hiện hành vi vi phạm gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật đã đăng tải trên các trên mạng xã hội.

Về trách nhiệm hình sự 

Như đã phân tích nêu trên, việc xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên không gian mạng, căn cứ vào các yếu tố: số lượng tương tác các bài viết trên các trang mạng xã hội, ý thức chủ quan của người phạm tội và thiệt hại người bị xâm phạm phải gánh chịu. Đối với tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín thì động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. 

Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trên không gian mạng internet thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội danh sau:  

  • Người phạm tội sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện phạm tội đăng tải bài viết, hình ảnh, ... có nội dung xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trên không gian mạng internet, thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác quy định tại điểm e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự với khung hình phạt là từ 03 tháng đến 02 năm tùy theo tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.  

  • Người phạm tội sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội bịa đặt hoặc loan truyền những thông tin biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống quy định tại điểm e khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự, khung hình phạt từ 01 năm đến 03 năm và tùy theo mức độ và hậu quả của việc vi phạm, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 50.000.000 đồng và bị cấm giữ chức vụ hoặc tham gia vào một số hoạt động, nghề nghiệp nhất định từ 01 đến 05 năm. 

  • Người phạm tội lợi dụng các quyền tự do ngôn luận để thực hiện hành vi đăng tải các bài viết, phát sóng trực tiếp hoặc bình luận các bài viết với những nội dung thông tin chưa được kiểm chứng, những không tin sai sự thật nhằm xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, trong đó có bao gồm xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín của các cá nhân, tổ chức, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 331 Bộ luật hình sự, với mức hình phạt là là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, nếu người phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì mức phạt tù là từ 02 năm đến 07 năm.   

  • Người phạm tội nếu có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác bằng cách đăng tải, phát tán hình ảnh, video có nội dung đồi trụy hoặc các văn hóa phẩm đồi trụy khác có liên quan đến họ lên mạng xã hội hoặc phương tiện khác thì ngoài việc xâm phạm nghiêm trọng đến quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín theo Bộ luật Dân sự, người này còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo Điều 326 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt là phạt tiền từ 10.000.000 đồng – đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 15 năm tùy theo mức độ, tính chất hành vi phạm tội. 

  • Người phạm tội nếu không thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 155, 156 và 326 Bộ luật Hình sự nhưng có hành vi đưa thông tin lên mạng xã hội những thông tin trái quy định pháp luật thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đưa và sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo Điều 288 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt là phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm tùy theo mức độ, tính chất hành vi phạm tội.  

Về trách nhiệm dân sự 

Căn cứ Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền được bảo vệ, danh dự, nhân phẩm, uy tín như sau: 

“Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín 

1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. 

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. 

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ. 

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng. 

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.” 

Theo quy định tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015, ngoài việc gỡ bỏ các bài viết có nội dung xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì chủ thể thực hiện hành vi vi phạm còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả sau: đăng tải thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. Như vậy, người bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín có các quyền sau: 

  • Được quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của những người thân.  

  • Được quyền yêu cầu các đối tượng có hành vi xâm phạm quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín trên không gian mạng internet phải thực hiện gỡ bỏ những thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. Trong trường hợp thông tin gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ. 

  • Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.  

  • Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ, chặt chẽ nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức trước các hành vi xâm phạm trên không gian mạng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng này vẫn diễn biến phức tạp với nhiều hình thức tinh vi, để lại hậu quả nghiêm trọng cho người bị hại. Do vậy, mỗi cá nhân cần trang bị kiến thức pháp luật, tỉnh táo trong việc sử dụng mạng xã hội, đồng thời kịp thời áp dụng các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, việc xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm không chỉ góp phần răn đe, phòng ngừa mà còn tạo dựng một môi trường mạng văn minh, lành mạnh và an toàn hơn cho toàn xã hội.

Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:

Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01

Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html

Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830

Website: https://luatsulh.com/

Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh (Địa chỉ cũ: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM)

Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Nam Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa (Địa chỉ cũ: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang)

Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:

Website: https://luatsulh.com/

Facebook: Luật sư LHLegal

Youtube: Luật sư LHLegal

Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)

Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal

Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự

Kênh Zalo OA

Hồ sơ năng lực LHLegal

Trụ sở

288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Xuân Hòa, TP. Hồ Chí Minh (Địa chỉ cũ: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM)

Điện thoại: 1900 2929 01

Chi nhánh Nha Trang

07 Bế Văn Đàn, Phường Nam Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa (Địa chỉ cũ: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang)

Điện thoại: 1900 2929 01

Đăng ký tư vấn Tính án phí