>>> Chi phí khởi kiện lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bao nhiêu?
>>> Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Câu hỏi:
Sau đó, anh B đã làm đơn rút yêu cầu khởi tố và cam kết không có bất kỳ khiếu nại nào đối với tôi. Trong trường hợp này, tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Mong Luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn!
Trả lời:
Đầu tiên, công ty Luật TNHH LHLegal xin trân trọng cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực luật hình sự về cho chúng tôi. Với thắc mắc của anh, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ giải đáp cụ thể như sau:
Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là một hành vi vi phạm pháp luật, được quy định cụ thể thành Tội danh tại Điều 174 Bộ luật Hình sự, khi thực hiện hành vi này trên thực tế, cá nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật bằng hệ thống hình phạt, có thể là các Hình phạt chính như Cải tạo không giam giữ, Tù có thời hạn, thậm chí là “án chữ” - tức Hình phạt Tù chung thân và một số Hình phạt bổ sung đi kèm tùy theo tính chất, mức độ của hành vi.
Dựa trên thông tin anh cung cấp, hành vi của anh có thể có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bao gồm:
Dùng thủ đoạn gian dối: Cung cấp thông tin sai sự thật, làm người khác tin và giao tài sản.
Chiếm đoạt tài sản: Nhận tài sản từ bị hại thông qua hành vi gian dối.
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên.
Vậy khi bị phát hiện, anh đã hoàn trả tiền và bồi thường tổn thất thì liệu có bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Mời anh xem tiếp thông tin sau để làm rõ hơn nhé!
Để cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự hiện hành, hành vi của chủ thể cần phải thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm gồm: Mặt khách thể, Mặt chủ thể, Mặt khách quan, Mặt chủ quan, cụ thể như sau:
Về mặt khách thể, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại.
Về mặt chủ thể, người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự hiện hành và có năng lực trách nhiệm hình sự phù hợp, tức không bị hạn chế, mất năng lực trách nhiệm hình sự.
Về mặt khách quan, vì Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự hiện hành được xác định là Tội danh có cấu thành tội phạm vật chất, nên mặt khách quan yêu cầu phải thỏa mãn 03 yếu tố gồm: Hành vi khách quan, Hậu quả, Mối quan hệ nhân quả. Cụ thể như sau, đối với hành vi khách quan thì người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thực hiện thủ đoạn gian dối nhằm làm cho bị hại tin tưởng vào thông tin gian dối được cung cấp một cách có chủ đích, dẫn đến hậu quả là bị hại giao tiền hoặc tài sản cho người thực hiện hành vi lừa đảo. Trong đó, vì thủ đoạn gian dối của người thực hiện hành vi nên mới dẫn tới hậu quả tài sản của bị hại bị chiếm đoạt, đây là nội hàm của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong mặt khách quan của Tội phạm.
Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Như vậy, để cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự thì một hành vi trên thực tế của chủ thể phải đáp ứng đủ tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm đã liệt kê nêu trên. Nếu thiếu bất kỳ yếu tố nào thì không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự, do đó sẽ không phải chịu Hình phạt và các chế tài liên quan.
Nhiều người lầm tưởng rằng nếu đã trả lại tiền và bị hại rút đơn thì sẽ không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, đây là quan niệm sai lầm. Theo đó:
Tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định như sau:
“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
…”
Vì vậy việc hoàn trả số tiền lừa đảo được xem là một trong số những biện pháp khắc phục hậu quả và là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.. Hơn nữa, theo nội dung câu hỏi, chúng tôi nhận thấy, đi kèm với việc hoàn trả số tiền lừa đảo là một khoản bồi thường tổn thất cho bị hại.Đây cũng được xem là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo cơ sở pháp lý nêu trên. Chính vì vậy, việc hoàn trả số tiền lừa đảo và bồi thường tổn thất không là căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thuộc nhóm tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại vì theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, chỉ có một số tội nhẹ như làm nhục người khác, vu khống, cố ý gây thương tích dưới 11%... mới bị khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) không thuộc nhóm này, nghĩa là cơ quan điều tra vẫn có thể khởi tố dù bị hại đã rút đơn.Vì vậy mà việc bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự không là căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự.
Tóm lại, việc hoàn trả số tiền lừa đảo và bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố sẽ giúp anh được giảm nhẹ hình phạt, nhưng anh vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
…”
Cụ thể anh lừa đảo số tiền là 500.000.000 đồng có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc Tù chung thân vì đây là cấu thành tội phạm tăng nặng và thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng theo phân loại tại khoản 4 Điều 9 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, anh có thể được giảm hình phạt nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự như:
Hoàn trả toàn bộ số tiền chiếm đoạt và khắc phục hậu quả.
Tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại.
Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt.
Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.
Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tòa án có thể cân nhắc áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn trong khung hình phạt nếu đủ điều kiện.
Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa có thể áp dụng mức phạt nhẹ hơn trong khung hình phạt
Một số trường hợp, người phạm tội đã trả tiền để bị hại rút đơn nhưng sau đó bị hại không rút đơn. Liệu bị hại có bị xem là lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?
Câu trả lời là không!
Về bản chất pháp lý, số tiền 500.000.000 triệu đồng và khoản bồi thường tổn thất là số tiền mà người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã trả cho bị hại và được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích.
Việc thỏa thuận rút đơn khởi tố (một cách tự nguyện) nhưng không rút không bị xem là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì bị hại không dùng thủ đoạn gian dối để có được số tiền nói trên cũng như số tiền mà bị hại đã nhận không có liên hệ với hành vi rút hay không rút đơn yêu cầu khởi tố của bị hại, tức không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cho nên, không thể xem là chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa, như đã phân tích, việc rút đơn yêu cầu khởi tố của bị hại không có giá trị đối với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể thực hiện hành vi. Do đó, không bị xem là hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật.
Trên đây là toàn bộ nội dung trả lời của Công ty Luật TNHH LHLegal cho câu hỏi trợ giúp pháp lý của anh Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
Số 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: 1900 2929 01
Số 7 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, TP. Nha Trang
Điện thoại: 1900 2929 01