>>> Lừa đảo tín dụng ngân hàng - Nhận diện dấu hiệu pháp lý và giải pháp phòng ngừa rủi ro
>>> Siết chặt bảo mật: Ngân hàng Nhà nước tung loạt giải pháp “khóa cửa” lừa đảo
LH Legal, với kinh nghiệm tư vấn cho Ngân hàng trong khâu tuân thủ và xử lý rủi ro liên quan đến hoạt động ngân hàng, chúng tôi sẽ phân tích chi tiết các vụ án điển hình dưới góc nhìn pháp luật và kiến nghị giải pháp để quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng.

Các đại án về tội chiếm đoạt tài sản ngân hàng điển hình
LH Legal tổng hợp các thông tin liên quan đến các vụ án dưới đây từ các nguồn báo chí và phương tiện truyền thông được công bố công khai.
Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như làm giả hồ sơ để chiếm đoạt hơn 4.000 tỷ đồng tiền gửi của khách hàng
Nội dung vụ án:
Bà Huỳnh Thị Huyền Như là nguyên Phó phòng quản lý rủi ro và Quyền Trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) chi nhánh TP. HCM, đồng thời là người có quyền hạn trong việc tiếp nhận hồ sơ mở tài khoản, ký kết hợp đồng tiền gửi và thực hiện các lệnh chi, chuyển tiền của khách hàng. Lợi dụng vị trí công tác và uy tín của VietinBank, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2010 đến tháng 9/2011, Huyền Như đã sử dụng nhiều thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tiền của hàng chục tổ chức và cá nhân với tổng số tiền lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Cụ thể, Như đã đưa ra các thông tin sai sự thật, làm giả hợp đồng tiền gửi, giả con dấu và chữ ký của VietinBank để thuyết phục các doanh nghiệp, tổ chức gửi tiền với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật. Sau khi các tổ chức, cá nhân này chuyển tiền vào tài khoản mở tại VietinBank theo hướng dẫn của Như, bà ta đã lợi dụng quyền hạn được giao, tự lập lệnh chi, giả chữ ký chủ tài khoản để rút tiền hoặc chuyển sang các tài khoản do mình kiểm soát, qua đó chiếm đoạt toàn bộ số tiền để tiêu xài cá nhân.
Kết quả xét xử:
Năm 2018, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã tuyên bà Như hình phạt tù chung thân về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt với các bản án trước đó là chung thân. Ngoài ra, bà Như cũng bị buộc bồi thường toàn bộ số tiền trên 400 tỷ đồng cho các bị hại.
Vụ án Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) thực hiện giao dịch tài chính gian dối gây thiệt hại khoảng 1.400 tỷ đồng
Nội dung vụ việc:
Nguyễn Đức Kiên, thường được gọi là “Bầu Kiên”, nguyên là Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), trong quá trình giữ chức vụ này ông Kiên đã thực hiện hàng loạt các hành vi:
-
Kinh doanh tài chính trái phép: Ông Kiên thành lập và điều hành 6 công ty (Công ty TNHH Đầu tư Tài chính Á Châu, Công ty Cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội, Công ty TNHH Đầu tư Tài chính ACB, Công ty TNHH B&B, Công ty TNHH Thương mại B&B, và Công ty Cổ phần Tập đoàn Tài chính Á Châu). Các công ty này thực hiện hoạt động đầu tư tài chính, mua bán cổ phần, phát hành trái phiếu, kinh doanh vàng khi chưa đăng ký ngành nghề phù hợp, vi phạm quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh. Tổng giá trị các giao dịch tài chính trái phép lên đến 21.490 tỷ đồng.
-
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: ông Kiên chỉ đạo Công ty Cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội bán khống 20 triệu cổ phần của Công ty Cổ phần Thép Hòa Phát, trong khi số cổ phần này đang được thế chấp tại ACB. Sau khi bán, ông không giao cổ phiếu cho bên mua mà vẫn chiếm giữ số tiền hơn 264 tỷ đồng, hành vi được xác định là thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của Thép Hòa Phát.
-
Hành vi trốn thuế: ông Kiên sử dụng Công ty TNHH B&B do mình làm Chủ tịch, lập hồ sơ mua bán cổ phần khống và chỉ đạo kế toán kê khai không đúng, qua đó trốn thuế thu nhập doanh nghiệp hơn 25 tỷ đồng.
-
Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng: Với vai trò là lãnh đạo ACB, ông Kiên đã chủ trương và chỉ đạo Hội đồng quản trị ban hành nghị quyết ủy thác cho nhân viên gửi tiền của ACB vào các tổ chức tín dụng khác, trong đó có VietinBank, với tổng số tiền hơn 718 tỷ đồng. Việc này trái quy định về hoạt động ủy thác của tổ chức tín dụng, dẫn đến việc số tiền nêu trên bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt.
Kết quả xét xử:
TAND Tối cao tại Hà Nội đã tuyên phạt ông Kiên tổng cộng hình phạt 30 năm tù cho cả 4 tội danh trên. Ngoài án tù, ông Kiên còn bị phạt bổ sung hơn 75 tỷ đồng về tội trốn thuế và phạt tiền 100 triệu đồng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ông cũng bị cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến hoạt động ngân hàng trong 5 năm sau khi mãn án.

Ông Kiên bị tuyên phạt 30 năm tù vì thực hiện giao dịch tài chính gian dối gây thiệt hại khoảng 1.400 tỷ đồng
Vụ án tại Ngân hàng ALCII ký hợp đồng khống để chiếm đoạt gần 3.000 tỷ đồng
Nội dung vụ án:
Vụ án xảy ra tại Công ty Cho thuê tài chính II (ALCII) thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) là một trong những đại án tài chính nghiêm trọng nhất trong lĩnh vực tín dụng. Từ năm 2007 đến 2009, Tổng giám đốc ALCII - Vũ Quốc Hảo cùng các đồng phạm đã lập khống nhiều hợp đồng cho thuê tài chính, nâng khống giá trị tài sản bảo đảm, thông đồng với các doanh nghiệp ngoài để ký các Hợp đồng cho thuê tài chính có bản chất là thực hiện nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng, trong khi ALCII không có chức năng cho vay tín dụng, nhằm giải ngân tổng số tiền 795,235 tỷ đồng cho các doanh nghiệp này. Hàng loạt khoản giải ngân được thực hiện trên hồ sơ giả, không có tài sản bảo đảm thật dẫn đến nợ xấu, khó thu hồi và gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho ALCII với tổng số tiền lên đến hơn 3.000 tỷ đồng. Điều đáng nói là trong suốt quá trình sai phạm trên, Agribank đã không kiểm tra, rà soát quá trình thực hiện các Hợp đồng cho thuê tài chính của Công ty con - ALCII, không ít cán bộ Ngân hàng này phải chịu trách nhiệm liên đới trong Vụ án.
Kết quả xét xử:
Năm 2013, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã tuyên phạt bị cáo Vũ Quốc Hảo mức án tử hình về tội Tham ô tài sản và 20 năm về tội cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tổng hình phạt là tử hình; các đồng phạm khác như Đặng Văn Hai bị tuyên án tù chung thân; nhiều cán bộ Agribank và doanh nghiệp liên quan bị tuyên phạt từ 7 đến 20 năm tù do sai phạm trong việc ký kết, thẩm định và giải ngân các hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng mua bán tài sản khống giữa ALC II và các doanh nghiệp ngoài, dẫn đến thất thoát hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước. Ngoài ra Tòa án còn tuyên về phần dân sự, buộc bị cáo Hảo bồi thường 4,9 tỷ đồng, bị cáo Hai bồi thường 64 tỉ đồng cho công ty ALCII. Vụ án là lời cảnh tỉnh sâu sắc về tình trạng buông lỏng kiểm soát nội bộ, vi phạm nguyên tắc cho vay, ký hợp đồng khống và sự câu kết giữa cán bộ ngân hàng với các doanh nghiệp bên ngoài để rút ruột tài sản Nhà nước. Đây cũng là bài học điển hình cho các tổ chức tín dụng về việc siết chặt quản trị rủi ro đối với các công ty con và kiểm soát hậu kiểm trong hoạt động tín dụng.
Vụ án Hứa Thị Phấn lợi dụng ảnh hưởng để thao túng, rút tiền ngân hàng gây thiệt hại 6.300 tỷ đồng
Nội dung vụ việc:
Từ năm 2010 - 2012, bà Hứa Thị Phấn là cổ đông lớn và người có ảnh hưởng tại Ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank), thông qua việc sở hữu trực tiếp và gián tiếp 84,92% vốn điều lệ Ngân hàng này và tham gia vào quản lý ngân hàng. Hứa Thị Phấn giữ chức vụ cố vấn cao cấp Hội đồng quản trị Ngân hàng Đại Tín, làm chủ ngân hàng, đưa nhiều người thân vào các vị trí quan trọng trong ngân hàng, chỉ đạo cho vay, góp vốn đầu tư trái pháp luật vào 4 bất động sản (số 10 Lý Tự Trọng (phường Bến Nghé, quận 1, TP HCM, hiện đang là trụ sở của CB hiện nay, tài sản này cũng đang bị kê biên), số 422B Nguyễn Thị Minh Khai (phường 5, quận 3, TP HCM; số 409 Sư Vạn Hạnh (phường 2, quận 10, TP HCM)) do 3 công ty của bà Phấn làm chủ đầu tư. Bà Phấn dùng ảnh hưởng của mình chỉ đạo lãnh đạo ngân hàng mua 4 bất động sản trên với giá cao với lý do là mở rộng hệ thống hoặc đầu tư bất động sản, chiếm đoạt 437 tỷ đồng, dù thời điểm này Trustbank đã vượt quá tỷ lệ mua sắm tài sản cố định, gây thiệt hại cho TrustBank tổng cộng hơn 1.338 tỷ đồng.
Kết quả xét xử:
Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên bà Phấn tổng hình phạt 30 năm tù về hai tội danh “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bà Phấn cũng bị tuyên buộc bồi thường số tiền rất lớn, khoảng 16.791 tỷ đồng cho các Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng Việt Nam - CB Bank. Sau khi bà Phấn qua đời, trách nhiệm dân sự được chuyển sang những người thừa kế theo di sản. Những thiệt hại của Trustbank từ sự việc trên là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh doanh của ngân hàng này rất xấu, Trustbank bị liệt kê vào danh sách những ngân hàng yếu kém và sau đó Nhà nước phải mua lại ngân hàng này với giá 0 đồng vào ngày 31-1-2015 để gánh toàn bộ lỗ lũy kế lên đến 27.000 tỷ đồng.

Bà Hứa Thị Phấn và các đồng phạm tại phiên tòa do Tòa án nhân dân TP HCM xét xử ngày 15-5-2018
Vụ án Phạm Công Danh lợi dụng chức vụ để chỉ đạo lập công ty “sân sau”, vi phạm quy định cho vay, gây thiệt hại hơn 6.000 tỷ đồng
Nội dung vụ án:
Ông Phạm Công Danh - nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB) và Tổng giám đốc Tập đoàn Thiên Thanh. Ông Danh đã có hàng loạt hành vi sau:
-
Lập hồ sơ khống để thực hiện đề án nâng cấp hệ thống Corebanking nhằm rút 63,276 tỷ đồng của VNCB;
-
Ký các hợp đồng khống để thuê mặt bằng tại đường Tô Hiến Thành và Sư Vạn Hạnh, sau đó lấy 581 tỷ đồng từ VNCB trả cho các hợp đồng khống này để trả lãi cho các công ty thuộc tập đoàn Thiên Thanh và một số khoản nợ khác.
-
Chỉ đạo cấp dưới lập hồ sơ phát hành trái phiếu khống, sử dụng tiền của VNCB mua 900 trái phiếu của Tập đoàn Thiên Thanh (trị giá 900 tỷ đồng) rồi chuyển lại cho Danh sử dụng.
-
Chỉ đạo rút trái phép tiền gửi của khách hàng là bà Trần Ngọc Bích và nhóm công ty liên quan, tổng cộng 5.490 tỷ đồng, không có chữ ký hợp lệ của chủ tài khoản.
-
Vì cần tiền trả nợ, Phạm Công Danh đã ký các hợp đồng mua bán nguyên vật liệu khống để rút 4.700 tỷ đồng của VNCB để trả nợ cho nhiều nhóm khác nhau.
Chỉ trong 2 năm (từ năm 2012 đến 2014) tổng số tiền mà Phạm Công Danh và đồng phạm gây ra cho VNCB đến thời điểm khởi tố vụ án là hơn 9.000 tỷ đồng, trong đó riêng hành vi vi phạm quy định cho vay và rút tiền trái phép gây thiệt hại hơn 6.100 tỷ đồng.
Kết quả xét xử:
Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã tuyên phạt ông Phạm Công Danh 30 năm tù về tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Đồng thời, ông Danh còn bị buộc phải hoàn trả hơn 6.100 tỷ đồng gốc và lãi mà bị cáo Phạm Công Danh thực hiện các hành vi vi phạm rút hoặc vay từ VNCB.
Cảnh báo lỗ hổng trong quản lý tài chính – tín dụng
Các vụ án lớn trong lĩnh vực ngân hàng như Huỳnh Thị Huyền Như, Nguyễn Đức Kiên, Phạm Công Danh, ALCII – Vũ Quốc Hảo, Hứa Thị Phấn… cho thấy hệ thống tín dụng Việt Nam vẫn tồn tại nhiều điểm yếu. Những lỗ hổng này không chỉ nằm ở hành vi của cá nhân mà còn xuất phát từ cơ chế quản lý, kiểm soát rủi ro chưa hiệu quả và văn hóa tuân thủ trong toàn hệ thống tài chính – ngân hàng.
-
Quản trị rủi ro yếu kém: Phần lớn các ngân hàng trong những vụ án điển hình đều bộc lộ điểm yếu trong công tác quản trị rủi ro. Việc thẩm định tín dụng chủ yếu dựa trên hồ sơ giấy tờ mà thiếu biện pháp xác minh thực tế, trong khi bộ phận kiểm soát nội bộ thường bị chi phối bởi áp lực doanh số. Ở nhiều nơi, cùng một cán bộ vừa đề xuất cho vay, vừa tham gia thẩm định và giám sát, dẫn đến xung đột lợi ích nghiêm trọng. Các quy trình nhận diện, đo lường và cảnh báo sớm rủi ro tín dụng chưa được thực hiện đầy đủ. Hệ thống chấm điểm tín dụng nội bộ còn hình thức, dữ liệu đầu vào không được cập nhật hoặc xác thực, khiến việc đánh giá khách hàng thiếu chính xác.
-
Thanh tra, giám sát ngân hàng chưa hiệu quả: Hoạt động thanh tra – giám sát ngân hàng hiện nay vẫn thiên về “hậu kiểm” và mang tính hành chính. Việc kiểm tra chủ yếu dựa vào báo cáo nội bộ do chính ngân hàng cung cấp, thiếu hệ thống giám sát dữ liệu theo thời gian thực. Cơ chế phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan quản lý khác còn rời rạc, khiến việc phát hiện dấu hiệu bất thường chậm trễ. Trong nhiều vụ án, khi cơ quan chức năng vào cuộc thì hành vi gian lận đã kéo dài nhiều năm, tài sản bị tẩu tán hoặc mất khả năng thu hồi. Việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ quản lý yếu kém hoặc bao che vi phạm còn thiếu nghiêm minh.
-
Lỗ hổng pháp lý: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng, định giá tài sản và xử lý nợ xấu vẫn còn nhiều điểm bất cập. Quy định về định giá tài sản bảo đảm chưa thống nhất, dẫn đến tình trạng nâng khống giá trị tài sản thế chấp hoặc nhận tài sản bảo đảm không đủ điều kiện pháp lý. Việc xử lý tài sản bảo đảm qua thi hành án dân sự còn chậm, khiến giá trị thu hồi giảm mạnh. Các quy định về trách nhiệm cá nhân trong phê duyệt tín dụng, kiểm soát nội bộ hoặc báo cáo rủi ro còn chung chung, chưa tạo sức răn đe. Ngoài ra, hành lang pháp lý cho việc chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng, công ty định giá và cơ quan quản lý vẫn chưa hoàn thiện, làm hạn chế hiệu quả cảnh báo rủi ro sớm.
-
Sự cấu kết nhóm lợi ích: Nhiều đại án ngân hàng cho thấy sự tồn tại của lợi ích nhóm, nơi lãnh đạo, cán bộ ngân hàng thông đồng với doanh nghiệp bên ngoài hoặc người có cổ phần chi phối để chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Ngân hàng. Việc cho vay nội bộ, cấp tín dụng vượt giới hạn hoặc phê duyệt cho doanh nghiệp “sân sau” diễn ra tinh vi, được hợp thức hóa bằng hồ sơ khống hoặc thẩm định giả. Ở một số ngân hàng, cơ cấu quản trị thiếu minh bạch khiến Hội đồng quản trị và Ban điều hành đồng thời nắm quyền kiểm soát cả tín dụng lẫn kiểm soát rủi ro. Văn hóa tổ chức “nể nang” và “bao che” cũng khiến các dấu hiệu sai phạm không được báo cáo kịp thời.
-
Công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay: Qua các vụ án lớn như vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, vụ Phạm Công Danh hay vụ “Bầu Kiên”, có thể thấy điểm chung là việc buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay sau giải ngân của Ngân hàng. Nhiều ngân hàng chỉ dừng lại ở khâu thẩm định hồ sơ, mà không theo dõi dòng tiền, dẫn đến việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư thua lỗ hoặc chiếm đoạt sử dụng cho mục đích cá nhân. Đặc biệt, một số cán bộ tín dụng còn lợi dụng mối quan hệ quen biết hoặc chịu ảnh hưởng từ lãnh đạo để bỏ qua quy trình kiểm tra, tiếp tay cho việc hợp thức hóa hồ sơ và sử dụng vốn trái quy định. Điều này cho thấy, việc tăng cường giám sát độc lập và minh bạch trong quy trình quản lý tín dụng là yêu cầu cấp thiết nhằm ngăn ngừa rủi ro và sai phạm tương tự tái diễn.

Lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay khiến nhiều vụ đại án lừa đảo ngân hàng diễn ra
Bài học rút ra và khuyến nghị
Từ các vụ án lớn trong lĩnh vực tài chính – tín dụng cho thấy, quản trị rủi ro không chỉ là yêu cầu nội bộ của từng ngân hàng mà còn là yếu tố sống còn đối với toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia. Thực tiễn này bộc lộ hàng loạt sai sót mang tính hệ thống, từ khâu thẩm định, phê duyệt tín dụng, giám sát sau vay đến việc thiếu cơ chế kiểm soát độc lập và xử lý kỷ luật cán bộ. Trên cơ sở đó, LH Legal tổng hợp và rút ra những bài học cùng các kiến nghị giải pháp tương ứng với từng thực trạng như sau:
-
Quản trị rủi ro yếu kém: Ngân hàng cần xây dựng mô hình quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế Hiệp ước Basel III, trong đó tách bạch rõ ba tuyến phòng thủ: (1) bộ phận kinh doanh; (2) bộ phận quản trị rủi ro độc lập; và (3) bộ phận kiểm toán nội bộ. Cần tăng cường ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) để phát hiện bất thường trong giao dịch và hành vi tín dụng. Đồng thời, Hội đồng quản trị Ngân hàng phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc phê duyệt, rà soát danh mục rủi ro và giám sát việc tuân thủ quy định về an toàn tín dụng. Các ngân hàng cũng cần xây dựng văn hóa quản trị rủi ro — xem việc phát hiện và báo cáo sai phạm là hành động bảo vệ tổ chức, không phải gây cản trở kinh doanh.
-
Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chưa hiệu quả: Ngân hàng cần chuyển đổi mô hình giám sát từ thủ công sang giám sát dựa trên rủi ro. Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng trung tâm giám sát giao dịch tài chính tập trung, thu thập dữ liệu thời gian thực từ các tổ chức tín dụng để phát hiện bất thường trong dòng tiền, đặc biệt là giao dịch lớn hoặc có dấu hiệu rửa tiền. Các cuộc thanh tra cần tăng cường yếu tố đột xuất, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm như cho vay nội bộ, đầu tư chéo, hoặc cấp tín dụng cho doanh nghiệp có liên quan đến lãnh đạo ngân hàng. Bên cạnh đó, cần quy định rõ chế tài cá nhân đối với người đứng đầu cơ quan thanh tra hoặc tổ chức tín dụng nếu để xảy ra vi phạm mà không phát hiện kịp thời.
-
Lỗ hổng pháp lý về quy định cấp tín dụng, bảo đảm khoản vay: Để tránh lỗ hổng này, cần có sự rà soát, sửa đổi đồng bộ các quy định về tín dụng, bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản thế chấp theo hướng minh bạch, thống nhất và có trách nhiệm cá nhân rõ ràng từ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bổ sung quy định về trách nhiệm dân sự và hình sự của người phê duyệt, thẩm định sai dẫn đến thiệt hại. Đồng thời, cần hoàn thiện cơ chế chia sẻ thông tin tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia (CIC), áp dụng chế độ cảnh báo bắt buộc đối với khách hàng có rủi ro cao.
-
Sự cấu kết nhóm lợi ích: Để tránh sự cấu kết các nhóm lợi ích với nhau, các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cần siết chặt quy định về giới hạn cấp tín dụng đối với cổ đông lớn, người có liên quan, đảm bảo các giao dịch nội bộ được công khai và chịu sự giám sát độc lập. Các ngân hàng phải thực hiện nguyên tắc tách bạch quyền lực giữa các cấp phê duyệt, thẩm định và kiểm tra tín dụng; Công bố công khai các thông tin liên quan đến giao dịch nội bộ, người liên quan … Đồng thời thiết lập cơ chế tố giác nội bộ để khuyến khích cán bộ báo cáo hành vi vi phạm của người liên quan. Việc đánh giá và khen thưởng cán bộ cần gắn liền với tiêu chí tuân thủ, không chỉ dựa vào doanh số tín dụng. Ngoài ra, cơ quan quản lý cần tăng cường công khai thông tin vi phạm của tổ chức tín dụng, xử lý nghiêm những cá nhân lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi hoặc bảo kê sai phạm.
-
Rà soát, kiểm tra nghiêm ngặt việc sử dụng vốn vay: Cần thiết lập cơ chế giám sát dòng tiền vay độc lập, kiểm tra hậu giải ngân bắt buộc, gắn trách nhiệm cá nhân của cán bộ thẩm định, phê duyệt và kiểm soát tín dụng. Ngân hàng nên ứng dụng công nghệ quản lý dòng tiền theo thời gian thực, kết nối dữ liệu với cơ quan thuế và hệ thống hóa đơn điện tử để phát hiện sớm hành vi sử dụng vốn sai mục đích hoặc lập hồ sơ khống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường thanh tra đột xuất và hậu kiểm các khoản vay lớn, bảo đảm vốn vay được sử dụng đúng mục tiêu, hạn chế rủi ro tín dụng và ngăn chặn hành vi chiếm đoạt tài sản ngân hàng.
Nhìn lại các đại án chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng có thể thấy, đằng sau mỗi con số thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng không chỉ là hậu quả của những hành vi gian dối cá nhân mà còn là còn kéo theo sự bất ổn về hệ thống nội bộ, hoạt động của Ngân hàng, đe dọa đến sự an toàn của toàn bộ nền tài chính. Những đại án trên là những hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ cho toàn bộ hệ thống tài chính – ngân hàng về nguy cơ rủi ro trong quản trị, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn, duy trì ổn định hoạt động kinh doanh nếu không kiểm soát được rủi ro đạo đức và quản lý nội bộ tổ chức. Chính vì vậy, việc siết chặt quản trị rủi ro, minh bạch hóa hoạt động tín dụng, nâng cao hiệu quả thanh tra – giám sát và hoàn thiện hành lang pháp lý là những giải pháp bắt buộc để đảm bảo an toàn hệ thống tín dụng.
Trong bối cảnh đó, vai trò của các tổ chức hành nghề luật như LH Legal trở nên ngày càng quan trọng – không chỉ trong việc tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, mà còn trong việc góp phần xây dựng cơ chế phòng ngừa, kiểm soát rủi ro pháp lý và củng cố văn hóa tuân thủ. Với kinh nghiệm thực tiễn từ nhiều vụ án tài chính – ngân hàng, LH Legal hướng tới sứ mệnh đồng hành cùng ngân hàng và doanh nghiệp trong quá trình nâng cao năng lực quản trị, minh bạch hóa hoạt động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Đây không chỉ là trách nhiệm nghề nghiệp mà còn là đóng góp thiết thực vào sự ổn định, bền vững của thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 12A Nguyễn Đình Chiểu, Phường Tân Định, Thành phố Hồ Chí Minh (Phường Đa Kao, Quận 1 cũ)
Chi nhánh Nha Trang: 144 Hoàng Hoa Thám, phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà (Phường Lộc Thọ, Thành phố Nha Trang cũ)
Theo dõi Công ty Luật LH Legal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LH Legal
Youtube: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LH Legal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
![]() |
![]() |
Có thể yêu cầu hủy kết quả đấu giá đất nếu có sai phạm không? (24.06.2025)
Hướng dẫn khiếu nại, khởi kiện khi bị bán đấu giá tài sản mà chưa được thông báo hợp lệ (22.06.2025)
Áp dụng tập quán thương mại trong bảo lãnh ngân hàng đối ứng - Có được thỏa thuận không? (19.06.2025)
Hoàn thiện pháp lý xử lý nợ xấu - Giải phóng dòng vốn cho nền kinh tế (19.06.2025)
Ngân hàng bị phá sản trong trường hợp nào? Tài sản ngân hàng có được thanh lý khi phá sản không? (16.06.2025)
Quá trình sáp nhập tổ chức tín dụng cần lưu ý gì khi chuyển nhượng tài sản (13.06.2025)
Quy định pháp luật về việc giải thể chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang có tranh chấp (12.06.2025)
Ngân hàng giám sát có phải là ngân hàng thương mại? Những hạn chế đối với người điều hành ngân hàng giám sát (10.06.2025)


Tổng đài tư vấn pháp luật:
Email: hoa.le@luatsulh.com




