>>> Phân tích và bình luận thông báo rút kinh nghiệm giải quyết vụ án số 1070/VKSTC-V3
Bài viết sẽ tóm tắt nội dung bản án, phân tích chi tiết hành vi vi phạm của các bị cáo, đồng thời đánh giá các vấn đề pháp lý nổi bật, nhằm rút ra bài học về quản lý nhà nước và trách nhiệm hình sự đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Tóm tắt Bản án
Các Bị cáo:
-
Bị cáo Nguyễn Thị Kim T: Sinh năm 1962, Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, Nguyên là Phó Chủ tịch UBND xã Tân L.
-
Bị cáo Nguyễn Văn L: Sinh năm 1957; Nơi cư trú: ấp Thạnh An, xã Tân L, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nguyên Chủ tịch UBND xã Tân L.
-
Bị cáo Phan Duy T: Sinh năm 1977; Nơi cư trú: ấp TH, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nguyên là Công chức Địa chính xã Tân L.
Bị hại: Công ty Cổ phần Tập đoàn S (Công ty S).
Xem chi tiết bản án tại đây: Bản án số 94/2024/HS-PT về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Nội dung vụ án
Ngày 16/12/2007, khi Công ty Cổ phần Tập đoàn S ký hợp đồng giao khoán với Nguyễn Thị Kim T, Phó Chủ tịch UBND xã Tân L (đã nghỉ hưu), để mua đất nuôi trồng thủy sản tại xã Tân L. Công ty S đã tạm ứng cho Kim T số tiền 10 tỷ đồng để thực hiện giao dịch này. Trong quá trình thực hiện dự án được phê duyệt 9,6 ha, cơ quan thanh tra phát hiện có 18 hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả được lập, với tổng diện tích 10.434,65 m².
-
Bị cáo Kim T, với vai trò Phó Chủ tịch UBND xã Tân L, trực tiếp chỉ đạo và ký xác nhận các hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, đồng thời hợp thức hóa việc chuyển nhượng những hồ sơ này sang Công ty Cổ phần Tập đoàn S. Kim T đã trực tiếp chiếm đoạt số tiền 508.701.358 đồng từ Công ty S thông qua các giao dịch giả tạo, đồng thời che giấu hành vi phạm tội bằng cách lập thủ tục giả mạo và xác nhận thông tin không đúng thực tế.
-
Bị cáo Văn L, là Chủ tịch UBND xã Tân L ký xác nhận các hồ sơ đất giả do Nguyễn Thị Kim T lập, mặc dù biết hồ sơ không đúng thực tế. Bị cáo L giúp sức cho bị cáo T chiếm đoạt số tiền toàn bộ 508.701.358 đồng nêu trên.
-
Bị cáo Duy T, cán bộ địa chính xã Tân L, tham gia vào quá trình lập hồ sơ và thẩm định các giấy tờ, ký xác nhận vào các tài liệu sai lệch nhằm đảm bảo thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ trái pháp luật có thể hoàn tất. Hành vi của Duy T giúp hồ sơ giả được hoàn thiện, tạo điều kiện cho Kim T chiếm đoạt tài sản. Bị cáo T giúp sức cho bị cáo Kim T chiếm đoạt 448.749.250 đồng.
Quyết định của Tòa án Nhân dân Sơ thẩm (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Theo Bản án sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về quyết định hình phạt đối với các bị cáo như sau:
-
Xử phạt bà Nguyễn Thị Kim T 08 (tám) năm tù theo điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ luật Hình sự.
-
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt theo điểm a khoản 3 Điều 355; các điểm s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự;
-
Xử phạt bị cáo Phan Duy T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt theo điểm d khoản 2 Điều 355; các điểm s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.
Quyết định của Tòa án Nhân dân Phúc thẩm (TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh)
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về quyết định hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn L và Phan Duy T.
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Phan Duy T phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.
-
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt theo điểm a khoản 3 Điều 355; các điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự;
-
Xử phạt bị cáo Phan Duy T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt theo điểm d khoản 2 Điều 355; các điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn L, Phan Duy T phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng.

Phân tích và đánh giá các vấn đề pháp lý trong Bản án theo pháp luật hiện hành
Nhận định của Tòa Phúc thẩm đối với hành vi của các bị cáo
Ngày 16/12/2007, bị cáo Nguyễn Thị Kim T ký hợp đồng giao khoán với Công ty Cổ phần Tập đoàn S, thỏa thuận đất của người dân đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mua với giá 67.000.000 đồng/1.000m2, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mua với giá 45.000.000 đồng/1.000m2. bị cáo T đã nhận tiền tạm ứng của Công ty S với số tiền 10 tỷ đồng để thực hiện mua đất. Ngày 15/7/2010, bị cáo T và Công ty S lập biên bản quyết toán thể hiện bị cáo đã mua và bàn giao cho Công ty S 143.895,89m2 đất của người dân đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 4.482,8m2 đất bãi bồi, nhưng trong tổng diện tích đất mà bị cáo T bàn giao cho Công ty S thì có 10.434,65m2 bị cấp trùng thửa, không có thật, trị giá 508.701.358 đồng.
Nguyễn Văn L với chức vụ là Chủ tịch UBND xã Tân L, Nguyễn Thị Kim T với chức vụ là Phó Chủ tịch UBND xã Tân L đã chỉ đạo các bị cáo Phan Duy T, Lê Thiện N ký lập khống 18 hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận của 13 hộ dân để được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 10.434,65m2, bị cáo T trực tiếp ký và viết vào phần đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, danh sách công khai, tờ trình cấp giấy chứng nhận của 11 hồ sơ, bị cáo L ký vào phần đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, danh sách công khai, tờ trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 11 hồ sơ. Trên cơ sở đó, bị cáo T đã chiếm đoạt của Công ty S 508.701.358 đồng tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thực hiện sự chỉ đạo của bị cáo T và bị cáo L, bị cáo T lập khống 18 bộ hồ sơ; trong đó có 11 bộ hồ sơ bị cáo T ký và viết vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, biên bản đo đạc, kết quả đã được xét duyệt 11 hồ sơ với diện tích 6.697,75m2 trên cơ sở đó bị cáo T đã làm thủ tục chuyển nhượng đất từ các hộ dân sang cho ông Lê Văn C (Đại diện Công ty S), chiếm đoạt của Công ty S số tiền 448.749.250 đồng.
Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, các bị cáo đều là những người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã làm trái công vụ để chiếm đoạt tiền của người khác. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Văn L và Phan Duy T phạm tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo khoản mấy Điều 355 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Trong tổng số tiền 508.701.358 đồng bị cáo T chiếm đoạt của Công ty S thì bị cáo L giúp sức cho bị cáo T chiếm đoạt số tiền toàn bộ 508.701.358 đồng nêu trên, còn bị cáo T giúp sức cho bị cáo T chiếm đoạt 448.749.250 đồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 01 tỷ đồng” theo điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T, bị cáo L; áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” đối với bị cáo T theo điểm d khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đánh giá các vấn đề pháp lý trong Bản án theo pháp luật hiện hành
Căn cứ theo quy định tại Điều 355 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu pháp lý sau:
Mặt khách thể: Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai và quyền sở hữu tài sản của Công ty S (Công ty S bị chiếm đoạt hơn 508 triệu đồng)
Mặt chủ thể: Chủ thể của tội phạm này phải là người có chức vụ, quyền hạn. Theo bản án, các bị cáo đều là cán bộ hợp tác xã, thành viên tổ thẩm định, phó chủ tịch và chủ tịch,người có chức vụ trong UBND xã, có quyền xác nhận, ký duyệt hồ sơ đất đai. Do đó, Chủ thể của tội phạm hoàn toàn đáp ứng điều kiện “người có chức vụ, quyền hạn” theo Điều 355 Bộ luật Hình sự.
Mặt khách quan:
-
Hành vi: Các bị cáo là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc xác nhận nguồn gốc, hiện trạng và hồ sơ pháp lý về đất đai, đã cố ý lợi dụng nhiệm vụ được giao để ký xác nhận sai sự thật, lập và hợp thức hóa hồ sơ đất không có thật, mặc dù biết rõ việc chuyển nhượng là gian dối và không đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Chính nhờ quyền hạn của mình, các bị cáo đã làm giả, tạo ra bộ hồ sơ hoàn chỉnh, làm cho Công ty S tin rằng việc chuyển nhượng là hợp pháp, từ đó chấp nhận tạm ứng tiền và mở đường cho việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi lợi dụng chức vụ để thực hiện các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tiền của đơn vị khác đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo Điều 355 Bộ luật Hình sự
-
Hậu quả: Hành vi trên của các bị cáo đã khiến Công ty S bị chiếm đoạt 508.701.358 đồng, gây thiệt hại trực tiếp về tài sản và xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước trong quản lý đất đai.
Mặt chủ quan: Trong vụ án trên, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo biết rõ đất không có thật, biết hồ sơ được lập khống, không đúng nguồn gốc, nhưng vẫn cố ý ký xác nhận để thuận lợi cho hoạt động chuyển nhượng nhằm hưởng lợi và chiếm đoạt một phần tiền của Công ty S. Những hành vi thể hiện mục đích chiếm đoạt tài sản, không phải sai sót nghiệp vụ.
Qua phân tích trên, có thể nhận thấy, nhận định và Quyết định của Hội đồng xét xử trong vụ án trên là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam.
Kiến nghị
Từ những sai phạm được chỉ ra trong bản án, có thể thấy hành vi lạm dụng chức vụ trong lĩnh vực quản lý đất đai thường xuất phát từ lỗ hổng trong quy trình kiểm tra, giám sát và cơ chế phân quyền tại cấp cơ sở. Vì vậy, để hạn chế các hành vi tương tự, cần thực hiện một số kiến nghị sau:
-
Thứ nhất, cần hoàn thiện và siết chặt quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại cấp xã và huyện, đặc biệt là khâu xác nhận nguồn gốc đất, xác minh thực địa và việc niêm yết công khai. Mọi hồ sơ phải được số hóa và lưu trữ tập trung để tránh việc hợp thức hóa tài liệu giả như trong vụ án.
-
Thứ hai, tăng cường công tác thanh tra nội bộ và kiểm tra đột xuất đối với cán bộ địa chính, lãnh đạo UBND cấp xã — những người trực tiếp tham gia xác nhận, lập hồ sơ đất đai. Việc thanh tra cần được thực hiện định kỳ, gắn với trách nhiệm giải trình cá nhân, tránh tình trạng buông lỏng trong thời gian dài như vụ án nêu trên.
-
Thứ ba, minh bạch hóa các giao dịch liên quan đến đất đai và chuyển nhượng dự án, đặc biệt khi có bên trung gian nhận tiền tạm ứng. Cơ quan chức năng nên yêu cầu bên nhận tạm ứng phải chứng minh tiến độ sử dụng tiền, cung cấp chứng từ và có đơn vị giám sát độc lập nhằm tránh nguy cơ chiếm dụng vốn hoặc chiếm đoạt như trường hợp của Công ty S.
Vụ án cho thấy hành vi lợi dụng chức vụ để hợp thức hóa hồ sơ nhằm chiếm đoạt tài sản là đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước và quyền lợi của doanh nghiệp. Phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm là phù hợp với tính chất vụ việc và đáp ứng yêu cầu răn đe, phòng ngừa chung. Qua phân tích bản án, LH Legal nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ quy trình quản lý đất đai, minh bạch hóa hoạt động công vụ và kiểm soát rủi ro pháp lý trong các giao dịch của doanh nghiệp, nhằm hạn chế tái diễn các hành vi tương tự trong thực tiễn.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 12A Nguyễn Đình Chiểu, Phường Tân Định, Thành phố Hồ Chí Minh (Phường Đa Kao, Quận 1 cũ)
Chi nhánh Nha Trang: 144 Hoàng Hoa Thám, phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà (Phường Lộc Thọ, Thành phố Nha Trang cũ)
Theo dõi Công ty Luật LH Legal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LH Legal
Youtube: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LH Legal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
![]() |
![]() |
Luật sư chuyên hình sự - Giải pháp pháp lý cho các vụ án chức vụ và kinh tế phức tạp (28.10.2025)
Phân tích và bình luận Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 120/2022/HS-ST (08.12.2025)
Tội cưỡng đoạt tài sản tại Nha Trang - Cần làm gì nếu bị đe dọa? (27.11.2025)
Điểm lại các vụ án lớn về tội Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (27.11.2025)
Mua điện thoại từ người phạm tội có bị xử phạt không? (27.11.2025)
Góc nhìn từ vụ kiện Vingroup tại Đức: Tự do ngôn luận không đồng nghĩa với tự do vu khống (14.11.2025)
Điểm lại những vụ án lớn về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản tại Việt Nam (29.10.2025)
Thủ đoạn của Shark Bình liên quan dự án “đồng tiền số Antex” (21.10.2025)


Tổng đài tư vấn pháp luật:
Email: hoa.le@luatsulh.com




