>>> Rủi ro tín dụng là gì? 4 nguyên tắc xử lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Dự phòng rủi ro tín dụng là gì?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 86/2024/NĐ-CP:
“Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập để dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.”
Nói cách khác, dự phòng rủi ro được Tổ chức tín dụng sử dụng như 1 khoản để bù đắp tổn thất của Tổ chức tín dụng khi xảy ra một số trường hợp đặc biệt dẫn đến rủi ro trả nợ của Khách hàng.
Tình trạng pháp lý của cá nhân mất tích
Khi một cá nhân “mất tích” trong thời gian dài, pháp luật dân sự có quy định riêng về tình trạng pháp lý của người này. Điều quan trọng cần phân biệt là một người chỉ đơn thuần “không liên lạc được” so với người “bị Tòa án tuyên bố mất tích” theo thủ tục pháp lý.
Khái niệm “mất tích” theo Bộ luật Dân sự 2015
Theo Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015, một người có thể bị Tòa án tuyên bố mất tích khi đáp ứng các điều kiện:
(i) biệt tích 2 năm liền trở lên (không có tin tức trong suốt 2 năm),
(ii) đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm nhưng không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết,
và (iii) theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày, tháng cuối cùng có tin tức thì tính từ đầu năm tiếp theo. Như vậy, cá nhân “mất tích” là một tình trạng pháp lý đặc biệt, do Tòa án tuyên bố bằng quyết định, khi hội đủ các điều kiện luật định.
So sánh "không liên lạc được” và “bị tuyên bố mất tích”
Trong thực tế, nhiều trường hợp người vay bỏ trốn, mất liên lạc nhưng chưa bị Tòa án tuyên bố mất tích. “Không liên lạc được” chỉ là tình trạng thực tế, về mặt vật lý khi không thể liên lạc được với người vay tại địa chỉ, số điện thoại, email đã cung cấp... Đây không phải là tình trạng pháp lý do tòa án công nhận, mà đơn thuần cho thấy người vay đang vắng mặt, có thể do cố ý trốn nợ hoặc vì lý do bất khả kháng. Ngược lại, cá nhân “bị tuyên bố mất tích” là kết quả của một thủ tục pháp lý tại Tòa án đối với cá nhân kéo theo hậu quả pháp lý cụ thể.
Do đó, một người mất liên lạc sẽ không bị coi là “mất tích” về mặt pháp lý nếu không có quyết định của Tòa án về việc tuyên bố cá nhân mất tích, người vay mất liên lạc chỉ được coi là người vắng mặt tại nơi cư trú. Trong giai đoạn này, pháp luật cho phép người có quyền lợi liên quan của người vắng mặt yêu cầu Tòa án cử người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú (theo Điều 65, Điều 66 BLDS 2015).. Ngay cả khi không thể tìm thấy người vay, chủ nợ (ngân hàng) có quyền khởi kiện vắng mặt để đòi nợ bên vay theo thủ tục tố tụng dân sự.
Chỉ sau khi có quyết định của Tòa án về việc tuyên bố cá nhân mất tích, người vay mới được coi là “mất tích”, kèm theo đó là việc tài sản của họ được quản lý đặc biệt và một số quan hệ nhân thân (như hôn nhân) có thể chấm dứt. Khi Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích, căn cứ Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản của người bị tuyên bố mất tích sẽ được giao cho người đang quản lý tài sản của họ tiếp tục quản lý.
Ảnh hưởng đến nghĩa vụ trả nợ và quyền xử lý khoản vay
Việc người vay bỏ trốn hay bị tuyên bố mất tích không làm chấm dứt nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự và tín dụng, nghĩa vụ trả nợ tiền vay là nghĩa vụ tài sản và sẽ tiếp tục tồn tại cho đến khi được thực hiện xong hoặc được pháp luật miễn trừ. Do đó, dù người vay mất tích, khoản nợ vẫn tính lãi (trừ khi hợp đồng có thỏa thuận khác) và ngân hàng vẫn có quyền đòi nợ. Thực tế, khi người vay trốn nợ, ngân hàng có quyền khởi kiện và yêu cầu Tòa án xử lý tài sản bảo đảm (nếu có tài sản thế chấp) để thu hồi nợ.
Đối với người bị Tòa án tuyên bố mất tích, pháp luật tạo cơ chế để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ: người quản lý tài sản của người mất tích có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ đến hạn của người mất tích bằng chính tài sản của người mất tích. Cụ thể, khi đã có quyết định tuyên bố cá nhân mất tích, thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người mất tích có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ bằng tài sản của người đó (Điều 66 và Điều 67 BLDS 2015). Như vậy, ngân hàng có thể yêu cầu người quản lý tài sản của người mất tích dùng tài sản thuộc sở hữu người mất tích để trả nợ khoản vay. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu người vay không có tài sản hoặc tài sản không đủ giá trị, ngân hàng vẫn khó thu hồi đủ nợ.

Người bị Tòa tuyên bố mất tích, pháp luật có cơ chế bảo vệ quyền lợi của chủ nợ
Tổ chức tín dụng có được sử dụng dự phòng rủi ro khi khách hàng mất tích không?
Pháp luật hiện hành cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) sử dụng khoản dự phòng rủi ro đã trích lập để xử lý khoản nợ trong trường hợp khách hàng là cá nhân bị mất tích. Quy định này nhằm giúp các ngân hàng chủ động xử lý các khoản nợ gần như không thể thu hồi, bảo toàn ổn định tài chính.
Căn cứ khoản 1 Điều 11 Nghị định 86/2024/NĐ-CP, ngân hàng (TCTD) được quyền dùng dự phòng để xử lý rủi ro trong hai trường hợp chính: (1) Khách hàng là cá nhân bị chết hoặc mất tích, hoặc tổ chức bị giải thể, phá sản; (2) Khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Như vậy, nếu người vay mất tích (có quyết định của Tòa án), ngân hàng có thể trích dự phòng rủi ro để xử lý khoản vay đó theo trường hợp (1). Đồng thời, ngay cả khi chưa có quyết định mất tích nhưng khoản nợ đã rơi vào nhóm 5 do quá hạn lâu ngày và không có khả năng thu hồi, ngân hàng cũng có quyền sử dụng dự phòng để xử lý theo trường hợp (2). Thực tế, hai điều kiện này thường đi đôi với nhau: một khách hàng mất tích, không liên lạc suốt thời gian dài, cũng sẽ dẫn đến khoản vay của họ trở thành nợ xấu nhóm 5.
Lưu ý: Theo khoản 4 Điều 11 Nghị định 86/2024/NĐ-CP việc ngân hàng sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoản vay (tức là hạch toán khoản nợ vào quỹ dự phòng – thường gọi là xử lý rủi ro) không đồng nghĩa với việc xóa nợ cho khách hàng. Ngoài ra, khoản 8 Điều 3 Nghị định này cũng nêu rõ: việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đối với khoản nợ đó. Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ sang ngoại bảng để theo dõi, nhưng khách hàng (hoặc người đại diện, thừa kế của họ) vẫn phải trả nợ khi có điều kiện.
Khi người vay mất tích thì khoản vay có thể bị phân vào nhóm nợ xấu nào?
Theo quy định khoản 1 Điều 10 Thông tư 31/2024/TT-NHNN quy định tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ (trừ các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng) theo 05 nhóm: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); Nhóm 2 (Nợ cần chú ý); Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn); Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ); Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn)).
Nếu người vay mất tích và ngừng trả nợ, khoản vay sẽ chuyển dần từ nhóm 2 (nợ cần chú ý) sang nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), rồi nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và cuối cùng là nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Nhóm 5 là nhóm nợ xấu nhất, buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng 100% giá trị dư nợ. Việc xếp khoản vay của người mất tích vào nhóm 5 là phù hợp với bản chất rủi ro: khả năng thu hồi gần như bằng không. Thậm chí, quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 86/2024/NĐ-CP đã liệt kê “cá nhân bị mất tích” như một trường hợp cho phép Ngân hàng được sử dụng dự phòng rủi ro tương đương với nợ nhóm 5. Nói cách khác, khách hàng mất tích thường đồng nghĩa khoản vay trở thành nợ có khả năng mất vốn, và ngân hàng được quyền dùng dự phòng rủi ro để “xóa” khoản nợ này khỏi hạch toán nội bảng nhằm giảm thiểu thiệt hại và giải quyết nợ xấu.
Điều kiện để sử dụng dự phòng rủi ro
Mặc dù pháp luật cho phép, nhưng không phải cứ người vay mất tích là ngân hàng lập tức sử dụng dự phòng rủi ro. Tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 11 Nghị định 86/2024/NĐ-CP quy định nguyên tắc Ngân hàng phải đáp ứng một số điều kiện, thủ tục nhất định trước khi “xử lý rủi ro” khoản vay bằng dự phòng như sau:
“1. Tổ chức tín dụng (trừ tổ chức tài chính vi mô), chi nhánh ngân hàng nước ngoài sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong các trường hợp sau:
a) Khách hàng là tổ chức bị giải thể, phá sản; cá nhân bị chết, mất tích;
b) Các khoản nợ được phân loại vào nợ nhóm 5.
2. Tổ chức tài chính vi mô sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong các trường hợp sau:
a) Khách hàng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Khách hàng là cá nhân bị thương tật vĩnh viễn không còn khả năng lao động tạo thu nhập.
3. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo nguyên tắc sau:
a) Đối với trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo thỏa thuận của các bên và theo quy định của pháp luật, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sử dụng dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro đối với số dư nợ còn lại của khoản nợ; trường hợp sử dụng dự phòng cụ thể không đủ bù đắp rủi ro của khoản nợ thì sử dụng dự phòng chung để xử lý rủi ro;
b) Đối với trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo nguyên tắc sau:
(i) Sử dụng dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro đối với khoản nợ đó;
(ii) Khẩn trương tiến hành xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận với khách hàng và theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ;
(iii) Trường hợp sử dụng dự phòng cụ thể và số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm không đủ bù đắp rủi ro của khoản nợ thì sử dụng dự phòng chung để xử lý rủi ro;
c) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hạch toán ngoại bảng phần dư nợ đã sử dụng dự phòng cụ thể, dự phòng chung để xử lý rủi ro quy định tại các điểm a, b khoản này.”
Tóm lại, điều kiện cốt lõi để ngân hàng sử dụng dự phòng rủi ro là: khoản vay thật sự không thể thu hồi được (thể hiện qua việc khách hàng mất tích theo quyết định của Tòa án hoặc nợ nhóm 5), đã trích đủ dự phòng rủi ro, và hoàn tất các thủ tục phê duyệt nội bộ theo đúng quy định pháp luật lẫn quy chế ngân hàng. Khi các điều kiện này thỏa mãn, ngân hàng có thể hạch toán sử dụng khoản dự phòng rủi ro để xử lý khoản nợ xấu.
Thủ tục xử lý rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng mất tích
Bước 1: Xác minh tình trạng khách hàng mất tích và phân loại khoản nợ
Trước hết, ngân hàng phải xác minh việc khách hàng mất tích có căn cứ pháp lý rõ ràng (Như đã phân tích tại Mục II). Ngân hàng (thông qua bộ phận pháp chế) có thể hỗ trợ gia đình hoặc người liên quan của bên vay nộp đơn lên tòa án yêu cầu tuyên bố khách hàng mất tích khi đủ điều kiện luật định.
Trong thời gian xác minh, ngân hàng cần phân loại khoản nợ của khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (như đã phân tích tại Mục III). Việc mất liên lạc với khách hàng và việc bên vay không thanh toán nợ sẽ dẫn đến khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn và nhóm nợ rủi ro cao.

Trong thời gian xác minh tình trạng khách hàng, ngân hàng cần phân loại khoản nợ của khách
Bước 2: Yêu cầu người quản lý tài sản của khách hàng mất tích thanh toán nợ từ tài sản của khách hàng
Sau khi Tòa án tuyên bố khách hàng là người mất tích và xác định người quản lý tài sản của người này, theo Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015, người đang quản lý tài sản của người vắng mặt sẽ tiếp tục quản lý tài sản khi người đó bị tuyên bố mất tích, với đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Điều 66 và 67 BLDS 2015.
Trong bước này, bộ phận pháp chế ngân hàng cần làm việc chặt chẽ với người quản lý tài sản được Tòa án chỉ định. Nếu khách hàng mất tích có tài sản bảo đảm (ví dụ: bất động sản thế chấp, tiền gửi tiết kiệm...), Ngân hàng nên phối hợp với người quản lý tài sản để xử lý tài sản bảo đảm đó theo đúng thỏa thuận và quy định pháp luật, nhằm thu hồi nợ tối đa.
Bước 3: Chuẩn bị hồ sơ sử dụng dự phòng rủi ro khi khách hàng không còn tài sản (khoản nợ nhóm 5)
Nếu xác định khách hàng mất tích không còn tài sản hoặc tài sản của họ không đủ để thanh toán khoản nợ, khoản nợ này sẽ trở thành tổn thất cho ngân hàng (thuộc nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn). Lúc này, ngân hàng cần sử dụng đến dự phòng xử lý rủi ro đã trích lập.
Theo khoản 5 Điều 11 Nghị Nghị định 86/2024/NĐ-CP, hồ sơ xử lý rủi ro gồm:
“a) Hồ sơ cấp tín dụng và hồ sơ thu nợ đối với các khoản nợ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro;
b) Hồ sơ tài sản bảo đảm và các giấy tờ khác có liên quan (nếu có);
c) Quyết định hoặc phê duyệt của Hội đồng xử lý rủi ro về kết quả phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với khoản nợ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro;
d) Quyết định hoặc phê duyệt của Hội đồng xử lý rủi ro về việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro;
đ) Đối với trường hợp khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị phá sản, giải thể, ngoài hồ sơ nêu tại các điểm a, b, c, d khoản này phải có bản gốc hoặc bản sao được chứng thực hoặc bản sao từ sổ gốc Quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án hoặc quyết định giải thể doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
e) Đối với trường hợp khách hàng là cá nhân bị chết, mất tích, ngoài hồ sơ quy định tại các điểm a, b, c, d khoản này phải có bản gốc hoặc bản sao được chứng thực hoặc bản sao từ sổ gốc Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay Giấy báo tử do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật, hoặc quyết định tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;
g) Đối với trường hợp khách hàng của tổ chức tài chính vi mô là cá nhân bị thương tật vĩnh viễn không còn khả năng lao động tạo thu nhập, ngoài hồ sơ quy định tại các điểm a, b, c, d khoản này phải có bản sao giấy tờ chứng minh bị thương tật vĩnh viễn không còn khả năng lao động tạo thu nhập do cơ quan có thẩm quyền cấp.”
Bước 4: Hạch toán khoản nợ, trích lập dự phòng và lưu giữ hồ sơ để đòi nợ sau này
Sau khi được phê duyệt, ngân hàng tiến hành hạch toán kế toán khoản nợ đã xử lý. Toàn bộ dư nợ gốc và lãi (không thu hồi được) sẽ được xóa khỏi bảng cân đối kế toán bằng cách dùng khoản dự phòng đã trích lập bù đắp – nói cách khác, khoản nợ được chuyển hạch toán ngoại bảng. Tuy nhiên, cần lưu ý việc sử dụng dự phòng xóa nợ chỉ là thủ tục kế toán nội bộ, không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Khách hàng (dù đang mất tích) vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký. Ngân hàng không được coi khoản nợ này là đã hết và cũng không thông báo cho khách hàng về việc đã sử dụng dự phòng xử lý rủi ro.
Sau khi xóa nợ trên hệ thống kế toán, ngân hàng phải tiếp tục theo dõi và lưu giữ hồ sơ khoản nợ ngoại bảng. Toàn bộ hồ sơ tín dụng, chứng từ vay nợ, quyết định tuyên bố mất tích và các tài liệu liên quan cần được lưu trữ cẩn thận. Điều này nhằm bảo vệ quyền đòi nợ của ngân hàng trong tương lai: nếu khách hàng mất tích quay trở lại hoặc phát hiện được tài sản mới, ngân hàng có căn cứ pháp lý để yêu cầu khách hàng hoặc người thừa kế, quản lý tài sản của họ thanh toán nợ.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 12A Nguyễn Đình Chiểu, Phường Tân Định, Thành phố Hồ Chí Minh (Phường Đa Kao, Quận 1 cũ)
Chi nhánh Nha Trang: 144 Hoàng Hoa Thám, phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà (Phường Lộc Thọ, Thành phố Nha Trang cũ)
Theo dõi Công ty Luật LH Legal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LH Legal
Youtube: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LH Legal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LH Legal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
![]() |
![]() |
Khi nào tài khoản ngân hàng bị phong tỏa một phần hoặc toàn bộ? (29.10.2025)
Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động tổ chức tín dụng: Hành vi, hậu quả và giải pháp pháp lý (29.10.2025)
Tổ chức cung ứng ví điện tử phải kiểm soát hạn mức giao dịch thế nào? (29.10.2025)
Tham ô tài sản trong lĩnh vực ngân hàng bị xử phạt thế nào? (27.10.2025)
Dự trữ bắt buộc là gì? Cách tính và quy định mới theo Thông tư 23/2025/TT-NHNN (09.10.2025)
Ngân hàng phát mại khoản nợ 163 tỷ đồng của “trùm siêu xe” Phan Công Khanh (29.09.2025)
Thu giữ ngôi nhà duy nhất: Ngân hàng có phải hỗ trợ tiền cho người đi vay? (29.09.2025)
Từ 1/11: Chuyển khoản trên 500 triệu đồng phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước – Ai là người thực hiện? (29.09.2025)


Tổng đài tư vấn pháp luật:
Email: hoa.le@luatsulh.com




