>>> Thủ tục tuyên bố người mất tích, chết theo pháp luật 2025
>>> Nhà nước có được thu hồi đất của người đã chết không?
Cơ sở pháp lý cho việc tuyên bố chết
Cơ sở pháp lý cho việc tuyên bố chết là căn cứ quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, việc giải quyết hệ quả của việc tuyên bố một người là đã chết còn dựa vào quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2015, 2018, 2019),...
Thẩm quyền tuyên bố chết
Cũng căn cứ Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, thẩm quyền tuyên bố chết thuộc về Toà án.
Điều kiện để Tòa án tuyên bố một người đã chết
Căn cứ Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015
“Điều 71. Tuyên bố chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
2. Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch”.
Như vậy Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong những trường hợp sau đây:
-
Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
-
Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
-
Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
-
Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống.
Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố chết
Căn cứ theo Điều 72 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết
“Điều 72. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết
1. Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết.
2. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.”
Quan hệ hôn nhân và gia đình
Căn cứ theo Điều 65 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về thời điểm chấm dứt hôn nhân
“Điều 65. Thời điểm chấm dứt hôn nhân
Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án”.
Theo quy định nêu trên, trường hợp Tòa án tuyên bố người chồng đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Đối với quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Thừa kế tài sản
Các trường hợp thừa kế:
Căn cứ theo Điều 611 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời điểm mở thừa kế
“Điều 611. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
Theo quy định nêu trên, trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày quyết định Tuyên bố chết của Tòa có hiệu lực.
Trong trường hợp có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp, thì những người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết có thể chia di sản theo pháp luật. Khi đó, những người ở cùng hàng thừa kế sẽ được chia phần di sản bằng nhau. (Điều 650 BLDS 2015)
Người thừa kế của người bị tuyên bố chết sẽ được chia di sản theo pháp luật nếu không có di chúc
Các quy định về thừa kế đối với người bị tuyên bố là đã chết được áp dụng như với người đã chết, cụ thể:
Thừa kế theo pháp luật:
Căn cứ theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo di chúc
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Chủ thể có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Thuộc hàng thừa kế hoặc thừa kế thế vị.
Thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng trong trường hợp:
-
Không có di chúc;
-
Di chúc không hợp pháp;
-
Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
-
Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Căn cứ pháp lý: Chương XXIII Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thừa kế theo di chúc:
Thừa kế theo di chúc được áp dụng trong trường hợp có di chúc hợp lệ và người thừa kế cũng đáp ứng đủ điều kiện nhận thừa kế theo di chúc, theo đó:
Di chúc phải được lập thành văn bản, đáp ứng các điều kiện: Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Lưu ý: Căn cứ Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015, người thuộc những trường hợp sau không được quyền hưởng di sản:
-
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
-
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
-
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
-
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
-
Tuy nhiên, nếu người lập di chúc đã biết về hành vi của những người thuộc các trường hợp nêu trên mà vẫn giữ nguyên ý định để lại di sản cho người đó thì người đó vẫn được quyền nhận thừa kế theo di chúc.
Xử lý các hợp đồng và giao dịch dân sự
Về chấp nhận giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng:
Căn cứ Điều 395, 396 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
Trường hợp bên đề nghị bị tuyên bố chết sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị.
Tương tự, trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó bị tuyên bố chết thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị.
Như vậy khi một người bị tuyên bố là đã chết, quyền và nghĩa vụ tài sản của họ sẽ được chuyển sang người thừa kế hợp pháp, điều này có nghĩa là hợp đồng vẫn tiếp tục được thực hiện, trừ khi nội dung hợp đồng quy định khác hoặc hợp đồng có tính chất gắn liền với nhân thân (ví dụ: hợp đồng lao động, …). Chẳng hạn như hợp đồng vay tài sản mà bên cho vay bị tuyên bố chết thì người thừa kế của bên cho vay là người thế quyền, có quyền yêu cầu bên vay thanh toán khoản nợ theo hợp đồng.
Bên cho vay bị tuyên bố chết, người thừa kế là người thế quyền
Quản lý tài sản trong thời gian chờ tuyên bố chết (nếu có)
Căn cứ Điều 64, 65 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một người biệt tích 06 tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú như sau
-
Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;
-
Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
-
Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
Trường hợp không có những người này, thì Toà chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Trường hợp người bị tuyên bố chết trở về
Hậu quả pháp lý khi người bị tuyên bố chết trở về
Căn cứ khoản 1 Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Khôi phục quan hệ nhân thân
Căn cứ khoản 2 Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
-
Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 (vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn) thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
-
Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Giải quyết vấn đề tài sản
Căn cứ khoản 3, 4 Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015, người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành.
Các vấn đề pháp lý liên quan khác
Về thực hiện nghĩa vụ
Căn cứ Điều 372 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể thấy nếu cá nhân bị tuyên bố chết mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân đó thực hiện thì nghĩa vụ đó chấm dứt.. Chẳng hạn như một người có nghĩa vụ buộc phải xin lỗi, cải chính công khai do đưa ra thông tin sai sự thật, làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, nhưng người đó đi biệt tích 05 năm liền mà không có tin tức, bị Toà án tuyên bố là đã chết.
Ngược lại, căn cứ Điều 382 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu cá nhân bị tuyên bố chết là bên có quyền, trong khi việc nghĩa vụ được thực hiện chỉ dành cho cá nhân đó thì nghĩa vụ cũng chấm dứt.
Về bảo hiểm xã hội
Đối với bảo hiểm xã hội, căn cứ mục 5 (từ Điều 66 – 71) Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2015, 2018, 2019), người bị Toà án tuyên bố chết cũng hưởng chế độ tử tuất tương tự như người chết sinh học, khoản trợ cấp sẽ được thanh toán cho nhân thân của người bị tuyên bố chết.
Người bị tuyên bố chết sẽ được hưởng chế độ tử tuất
Có thể thấy, khi Toà án tuyên bố một người là đã chết thì các vấn đề pháp lý liên quan đến nhân thân, tài sản của người đó được giải quyết tương tự như người chết tự nhiên (hay “chết sinh học”), tuy nhiên, khi có căn cứ trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, khôi phục quan hệ nhân thân, tài sản để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
Thông tư 29: 10 điểm mới quan trọng về dạy thêm, học thêm (17.03.2025)
Nghệ An: Một phụ nữ khỏa thân rơi khỏi ô tô (17.03.2025)
HOT: Điểm mới Luật công chứng 2024 (17.03.2025)
Cập nhật quy định mới về bồi thường thiệt hại trong công chứng từ 01/07/2025 (13.03.2025)
Thủ tục tuyên bố người mất tích, chết theo pháp luật 2025 (09.01.2025)
Tóm tắt bình luận bản án về tranh chấp yêu cầu chỉ định người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự (06.01.2025)
Nợ quá hạn bao lâu thì bị phát mại tài sản? Trình tự phát mại tài sản của ngân hàng (03.01.2025)
Nợ ngân hàng bao lâu thì bị khởi kiện? Nên làm gì khi nợ quá hạn ngân hàng? (02.01.2025)