logo
HotlineTổng đài tư vấn pháp luật: 1900 2929 01
HotlineHotline đặt lịch hẹn: 0903796830
EmailEmail: hoa.le@luatsulh.com

Án lệ số 56/2022/AL về việc giải quyết tranh chấp di dời mồ mả

Ngày 14/10/2022, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 323/QĐ-CA về việc công bố Án lệ số 56/2022/AL về việc giải quyết tranh chấp di dời mồ mả. Theo đó, Án lệ số 56/2022/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được áp dụng kể từ ngày 15/11/2022.

ÁN LỆ SỐ 56/2022/AL

Về việc áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp di dời mồ mả

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 10 năm 2022 và được công bố theo Quyết định số 323/QĐ-CA ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2019/DS-ST ngày 18/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang về vụ án “Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn cản di dời mồ mả” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu V với bị đơn là anh Vương Minh T, anh Vương Minh H.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

  • Tình huống án lệ: Người chồng chết, người vợ nhờ chôn cất chồng trên phần đất của người thân bên nhà chồng. Sau đó, người vợ muốn di dời phần mộ của chồng về đất của gia đình mình thì phát sinh tranh chấp.
  • Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định người vợ có quyền di dời mồ mả của chồng để quản lý, chăm sóc theo phong tục tập quán của người Việt Nam.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

  • Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Từ khóa của án lệ:

“Tranh chấp di dời mồ mả”, “Áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp di dời mồ mả”, “Áp dụng tập quán”

NỘI DUNG VỤ ÁN:

*Theo đơn khởi kiện ngày 24/04/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Thu V trình bày:

Chồng bà là ông Vương Văn A chết năm 2004, trước khi chết ông A có tâm nguyện được chôn cất trên đất của gia đình tại ấp B, xã M, huyện C, tỉnh K. Tuy nhiên, tại thời điểm ông A chết thì phần đất của gia đình bà đang trong quy hoạch nên bà mới mang ông A chôn cất nhờ trên phần đất của gia đình anh chồng là ông Vương Văn B để chờ qua quy hoạch sẽ di dời mồ mả của ông A về đất của gia đình bà chôn cất. Nay phần đất của gia đình bà đã ổn định, bà muốn thực hiện theonguyện vọng của chồng bà là di dời mồ mả của ông A về đất của gia đình bà để quản lý, chăm sóc nhưng hai con của ông B (anh chồng bà) là anh Vương Minh T và anh Vương Minh H ngăn cản không đồng ý cho bà chuyển hài cốt chồng của bà về đất nhà chôn cất; bà đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh T và anh H không được ngăn cản việc bà di dời phần mộ của ông A về trên đất của gia đình bà.

*Bị đơn là anh Vương Minh T và anh Vương Minh H trình bày:

Ông A là chú ruột của hai anh, khi ông A chết đã chôn cất trên phần đất của gia đình các anh hiện nay do anh T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay với yêu cầu khởi kiện của bà V yêu cầu hai anh chấm dứt hành vi ngăn cản việc bà V di chuyển mồ mả của ông A về đất nhà của gia đình bà V thì các anh không đồng ý với lý do chú các anh là ông A hiện nay không có người thân bên cạnh chăm sóc mồ mả, các anh đã chăm sóc mồ mả của ông A khoảng 15 năm nay. Hai anh đề nghị tạm thời để hai anh chăm sóc mồ mả của ông A, khi nào có người thân bên cạnh chăm sóc mồ mả của ông A thì hai anh sẽ đồng ý cho bà V di dời mồ mả của ông A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thu V thực hiện quyền khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 4, khoản 14 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh K.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn Trần Thị Thu V yêu cầu ông Vương Minh T và ông Vương Minh H không được ngăn cản việc bà V lấy hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A về đất nhà của bà để chôn cất, nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định trong vụ án là “Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn cản di dời mồ mã”.

[3] Về nội dung vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án thì nguyên đơn bà Trần Thị Thu V và bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H thống nhất xác định lúc trước bà V có nhờ đất của anh em anh Vương Minh T và anh Vương Minh H để chôn cất phần mộ của chồng bà là ông Vương Văn A, hiện tại phần mộ của ông A vẫn còn nằm trên phần đất của anh Vương Minh T. Bà Trần Thị Thu V yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Vương Minh T và anh Vương Minh H không được ngăn cản việc bà V lấy hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A về đất nhà của bà để chôn cất. Bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H không đồng ý yêu cầu của bà V với lý do chú là ông Vương Văn A hiện nay là không có người thân bên cạnh chăm sóc mồ mả.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đều thống nhất xác định trên phần đất của anh Vương Minh T và anh Vương Minh H có phần mộ của ông Vương Văn A; Bà V là vợ hợp pháp của ông Vương Văn A, nay bà có nguyện vọng di dời hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A về phần đất nhà của bà để chôn cất và chăm sóc. Xét yêu di dời hài cốt ông Vương Văn A là chồng của nguyên đơn bà Trần Thị Thu V là có căn cứ và phù hợp với phong tục tập quán cũng như truyền thống của người Việt Nam. Việc anh Vương Minh T và anh Vương Minh H đưa ra những lý do trên để ngăn cản bà V di dời hài cốt của chồng mình là không hợp lý, bởi bà V có mối quan hệ là vợ của ông Vương Văn A được pháp luật cũng như các bên thừa nhận nên có quyền thăm nom, chăm sóc và quản lý mồ mả của chồng mình là phù hợp với đạo lý cũng như thuần phong, mỹ tục của người Việt nam và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015.

Từ những căn cứ nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thu V là có căn cứ nên được chấp nhận. Do đó, buộc bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H phải chấm dứt hành vi cản trở việc bà Trần Thị Thu V di dời hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H mỗi người phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

Hoàn trả cho nguyên đơn bà Trần Thị Thu V số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0009710 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của chi cục thi hành án dân sự huyện C.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  • Căn cứ vào khoản 2 Điều 4, khoản 14 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
  • Căn cư vào Điều 4, Điều 5, Điều 14 Bộ luật dân sự 2015;
  • Căn cứ vào Điều 18 và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL- UBTVQH 12 ngày 27/02/2009;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thu V.

2. Buộc bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H phải chấm dứt hành vi cản trở việc bà Trần Thị Thu V di dời hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 18 và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL- UBTVQH 12 ngày 27/02/2009;

Buộc bị đơn anh Vương Minh T và anh Vương Minh H mỗi người phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

Hoàn trả cho nguyên đơn bà Trần Thị Thu V số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0009710 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của chi cục thi hành án dân sự huyện CT.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4]… Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đều thống nhất xác định trên phần đất của anh Vương Minh T và anh Vương Minh H có phần mộ của ông Vương Văn A; Bà V là vợ hợp pháp của ông Vương Văn A, nay bà có nguyện vọng di dời hài cốt của chồng bà là ông Vương Văn A về phần đất nhà của bà để chôn cất và chăm sóc. Xét yêu di dời hài cốt ông Vương Văn A là chồng của nguyên đơn bà Trần Thị Thu V là có căn cứ và phù hợp với phong tục tập quán cũng như truyền thống của người Việt Nam. Việc anh Vương Minh T và anh Vương Minh H đưa ra những lý do trên để ngăn cản bà V di dời hài cốt của chồng mình là không hợp lý, bởi bà V có mối quan hệ là vợ của ông Vương Văn A được pháp luật cũng như các bên thừa nhận nên có quyền thăm nom, chăm sóc và quản lý mồ mả của chồng mình là phù hợp với đạo lý cũng như thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự ".

Chia sẻ:
Người đăng:
Facebook chat