>>> Tóm tắt và bình luận bản án tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ hình thành trong tương lai
A. Tóm tắt vụ án
Nguyên đơn:
Ngân hàng N (A1) - Chi nhánh huyện T, tỉnh Yên Bái.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Huy T - Giám đốc A1 - Chi nhánh huyện T tỉnh Yên Bái
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Tô Tiến C - Phó giám đốc A1 - Chi nhánh huyện T tỉnh Yên Bái.
Bị đơn:
Ông Nguyễn Văn Q
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T1, Luật sư công ty L4, thuộc đoàn Luật sư thành phố H.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lò Thị S
2. Ông Hà Văn L
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lò Thị S và ông Hà Văn L: Ông Bùi Bảo L1
3. Anh Hà Văn A
4. Bà Hoàng Thị H
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hoàng Thị H: Ông Hoàng Văn B - Luật sư Công ty L5 thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
5. Ông Chu Văn H1
6. Bà Nguyễn Thị L2
7. Văn phòng đăng ký đất đai và phát triển quỹ đất thị xã N, tỉnh Yên Bái
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức T2 - Giám đốc
V/v: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Xem chi tiết Bản án số 01/2024/DS-PT ngày 11/01/2024 về tranh chấp hợp đồng tín dụng tại đây
Nội dung vụ án:
Nội dung tranh chấp xoay quanh Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD-2018 được ký kết giữa Ngân hàng N (A1), Chi nhánh huyện T (sau đây gọi là Nguyên đơn) và ông Nguyễn Văn Q (sau đây gọi là Bị đơn). Theo đó, Nguyên đơn cho Bị đơn vay số tiền 1.600.000.000 đồng. Kỳ hạn trả nợ được chia làm 03 kỳ, kéo dài từ năm 2018 đến năm 2021. Khoản vay này được đảm bảo bằng 03 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất gồm: Hợp đồng số 04/HĐTC-2018; Hợp đồng số 05/HĐTC-2018; Hợp đồng số 06/HĐTC-2018
Khoản vay này được Nguyên đơn giải ngân cho Bị đơn sau khi ký kết HĐTD và 03 hợp đồng thế chấp vào ngày 12-12-2018. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Q đã trả tiền lãi đến năm 2019 và sau đó không trả nợ gốc phân kỳ và không trả lãi từ năm 2019 đến năm 2020 mặc dù Nguyên đơn đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở khoản vay đến hạn đối với Bị đơn. Bên cạnh đó, Nguyên đơn cũng đôn đốc các bên đảm bảo gồm bà H, ông H1, bà S, ông L (Sau đây gọi là Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan) trả nợ cho khoản vay hiện tại đang quá hạn phân kỳ gốc và lãi. Trong đó có bà H đã nhờ ông Lò Đình T3 nộp tiền để Nguyên đơn thu hồi nợ, số tiền là 890.000.000 đồng. Sau đó, Nguyên đơn đã xuất kho trả lại GCNQSĐ số CK 745293, thửa đất số 874, tờ bản đồ số 13 cho bà Lê Thị Thu H2 - bà H2 được bà H và ông H1 ủy quyền. Sau đó, Nguyên đơn đã nhiều lần đôn đốc ông Q phải trả số tiền gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD-2018 nhưng ông Q không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và các bên đảm bảo cũng không phản hồi cho Nguyên đơn. Theo đó, tổng số tiền tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 1.128.659.794 đồng, trong đó nợ gốc là 710.000.000 đồng, lãi trong hạn 359.828.767 đồng, lãi quá hạn là 58.831.027 đồng.
B. Quan điểm pháp lý của các bên
Nguyên đơn
1. Buộc Bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn theo Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTC-2018. Cụ thể, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn tổng số tiền tạm tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm là ngày 29/9/2023 là 1.135.127.603 đồng, trong đó nợ gốc là 710.000.000 đồng, lãi trong hạn 364.079.041 đồng, lãi quá hạn là 61.048.562 đồng.
2. Thanh toán cho Nguyên đơn tiền nợ lãi, tiền phạt phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 01/10/2019 đến ngày 06/9/2023 và phải tiếp tục trả lãi cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
3. Yêu cầu Tòa án xác định quyền xử lý tài sản bảo đảm đề nghị phát mại thu hồi nợ nếu sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà Bị đơn không hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán.
4. Nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Nguyên đơn, Nguyên đơn có quyền xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Bị đơn để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
Bị đơn
1. Đề nghị bà Hoàng Thị H phải trả bị đơn số tiền gốc và lãi theo thỏa thuận giữa Bị đơn và bà H tại quyết định số 02/2023/QĐST-DS của TAND thị xã Nghĩa Lộ để bị đơn trả cho Nguyên đơn
2. Bị đơn chỉ đồng ý trả cho Nguyên đơn số tiền 260.000.000 đồng và số tiền lãi
3. Yêu cầu bà S, ông L phải có trách nhiệm trả số tiền còn lại cho Nguyên đơn vì đã thế chấp QSDĐ.
Bị đơn trong vụ án chỉ đồng ý trả số tiền 260 triệu đồng và tiền lãi
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Ông Hà Văn L:
Đề nghị bà H phải trả số tiền 633.676.500 đồng để ông bà trả cho Nguyên đơn và đề nghị Nguyên đơn trả GCNQSDĐ cho ông bà
2. Người đại diện hợp pháp của bà Hoàng Thị H
Yêu cầu HĐXX xem xét và chấp nhận việc bà H và ông H1 không còn liên quan đến khoản vay của ông Q theo Hợp đồng tín dụng số: 04/HĐTD-2018 vì mọi vấn đề liên quan đến bà H và ông H1 đã được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của TAND thị xã Nghĩa Lộ (QĐ số 02/2023/QĐST-DS) và Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành (QĐ số 07/2023/QĐ CNHGT - DS).
Tòa án
Tại bản án số: 03/2023/DS-ST ngày 29-9-2023 của TAND huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn, trong đó buộc bị đơn chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, phù hợp với quy định của pháp luật kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm đến khi thi hành án xong.
Nếu bị đơn không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ, Nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản đảm bảo theo các Hợp đồng thế chấp số 04/HĐTC-2018 và số 05/HĐTC-2018 để thu hồi nợ.
Nếu phát mại tài sản thế chấp vẫn không đủ trả nợ cho nguyên đơn thì bị đơn tiếp tục trả nợ cho đến khi trả đủ khoản nợ.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lò Thị S và ông Hà Văn L
4. Bản án sơ thẩm tuyên án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.
C. Phân tích bản án
Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm
Nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm có nhiều điểm tương đồng với nhận định của Tòa án sơ thẩm. Sau khi xem xét hồ sơ, tài liệu và đánh giá kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã:
-
Nhận định Hợp đồng tín dụng số 04/HĐTD-2018 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Q là hợp pháp, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nên buộc các bên phải thực hiện đúng nội dung hợp đồng này.
-
Với các Hợp đồng thế chấp số 04, 05, 06/HĐTC ngày 12-12-2018, HĐXX phúc thẩm nhận định rằng các hợp đồng này được giao kết hợp pháp, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép nên các bên có trách nhiệm thực hiện đúng các điều khoản đã cam kết.
-
HĐXX xác định ông Q - bị đơn, đã nhiều lần vi phạm nghĩa vụ theo Hợp đồng tín dụng, trong khi Ngân hàng - nguyên đơn, đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Do đó, ông Q có nghĩa vụ phải hoàn trả đầy đủ số tiền vay.
-
Việc Ngân hàng, ông H1, bà H và Văn phòng đăng ký đất đai thị xã N tiến hành thủ tục giải chấp là hoàn toàn hợp pháp và tự nguyện, phù hợp với nội dung của HĐTC số 06.
-
HĐXX cũng nhận định các Hợp đồng thế chấp số 05, 06 đều đúng quy định pháp luật.
-
Về yêu cầu của bà S, do không cung cấp được chứng cứ chứng minh yêu cầu bồi thường chi phí thu hồi tài sản thế chấp, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bà S và bị đơn ông Q.
Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lò Thị S, Hà Văn L.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn chịu toàn bộ chi phí, án phí; bà S được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.
D. Bài học rút ra từ vụ án so với quy định pháp luật
Các bên trong vụ án gồm: Nguyên đơn; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, sau khi tranh tụng tại Tòa án và nhận phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ có những bài học khác nhau mà tựu chung lại đều có giá trị lớn đối với họ.
Cụ thể:
-
Đối với Nguyên đơn – Ngân hàng N: Ngân hàng đã thực hiện đúng vai trò cung ứng vốn, nhưng gặp rủi ro pháp lý khi không thể thu hồi khoản vay, buộc phải kiện ra Tòa. Vụ việc cho thấy Ngân hàng cần thẩm định kỹ hơn hồ sơ vay, đặc biệt là năng lực thực hiện nghĩa vụ của bên vay để tránh tranh chấp phát sinh do thiếu thông tin hoặc nhận thức pháp luật chưa đồng đều.
-
Đối với Bị đơn – ông Q và người liên quan: Bị đơn thua kiện, phải chịu án phí và thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Vụ việc cho thấy cần hiểu rõ vai trò pháp lý của mình khi ký hợp đồng tín dụng, tránh việc "vay giùm" hoặc ký mà không nhận thức rõ hậu quả pháp lý, dễ dẫn đến vi phạm nghĩa vụ.
-
Đối với người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan (bên bảo đảm): Cần cẩn trọng khi bảo đảm nghĩa vụ cho người khác, xác định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Nếu bên vay không trả nợ, tài sản bảo đảm sẽ bị xử lý theo luật định.
Cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức cần chủ động phòng ngừa rủi ro pháp lý khi ký kết hợp đồng, nhất là hợp đồng tín dụng, bằng cách luôn trung thực, tuân thủ đúng cam kết và tiên liệu trước các tình huống có thể phát sinh.
Người dân nên chủ động phòng ngừa rủi ro pháp lý khi ký hợp đồng để tránh phát sinh tranh chấp
Để tránh tranh chấp, cần:
-
Xem xét kỹ hồ sơ trước khi cấp tín dụng;
-
Hiểu rõ vai trò pháp lý của mình;
-
Nắm rõ quy định về tài sản bảo đảm;
-
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng.
Tranh chấp trong Bản án số 01/2024/DS-PT là một ví dụ điển hình trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, khi bên vay sau khi nhận giải ngân từ ngân hàng lại không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Sau nhiều lần yêu cầu thanh toán không thành, ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án. Trên cơ sở xác định rõ hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và xem xét khách quan các tình tiết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên buộc bên vay phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Vụ việc là lời nhắc nhở về sự thận trọng và nghiêm túc khi ký kết hợp đồng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng. Các bên cần thể hiện thiện chí, trung thực trong suốt quá trình giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng, đồng thời luôn tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan – không để hành vi của mình gây ảnh hưởng đến quyền lợi được pháp luật bảo vệ của người khác.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
Pháp nhân thương mại là gì? Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nào? (30.12.2024)
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa (29.12.2024)
Thủ tục thành lập văn phòng đại diện công ty nước ngoài tại Việt Nam mới nhất 2025 (29.12.2024)
Phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành (28.12.2024)
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (28.12.2024)
Những điều cần biết về “Hợp đồng giả cách” (28.12.2024)
Hướng dẫn thành lập doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài (28.12.2024)
Điều kiện cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng đối với doanh nghiệp? (27.12.2024)