>>> Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
>>> Phân tích và bình luận thông báo rút kinh nghiệm giải quyết vụ án số 1070/VKSTC-V3
Xác định không đúng tư cách tố tụng của đương sự
Tòa án xác định sai chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án tín dụng. Cụ thể, nhiều trường hợp hợp đồng tín dụng (HĐTD) do chi nhánh ngân hàng ký kết với khách hàng, tuy nhiên Tòa án lại xác định chi nhánh ngân hàng (phòng giao dịch) là đương sự thay vì pháp nhân ngân hàng. Hoặc đối với khoản vay do doanh nghiệp tư nhân thực hiện, một số Tòa án còn xác định đương sự theo tên doanh nghiệp tư nhân hoặc giám đốc thuê làm bị đơn, thay vì cá nhân chủ doanh nghiệp đó. Những xác định sai tư cách đương sự nêu trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đã dẫn đến việc bản án bị hủy.
Trong trường hợp trên, Kiểm sát viên cần kiểm sát và lưu ý, pháp nhân có thẩm quyền (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng) mới là đương sự phù hợp, theo khoản 6 Điều 84 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định:
“pháp nhân chịu quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do chi nhánh của mình xác lập”.
Tương tự, với doanh nghiệp tư nhân vay vốn, phải xác định chủ doanh nghiệp tư nhân tham gia tố tụng với tư cách bị đơn (không phải giám đốc thuê), theo khoản 1 Điều 183, khoản 2, khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp 2014 (nay là khoản 1 Điều 188 và khoản 2, khoản 3 Điều 190 Luật Doanh nghiệp 2020). Việc tuân thủ các quy định này sẽ đảm bảo xác định đúng tư cách tố tụng của các bên.
Bỏ sót vợ hoặc chồng tham gia tố tụng đối với trường hợp tài sản thế chấp đứng tên một người trong thời kỳ hôn nhân
Nhiều trường hợp Tòa án không đưa vợ hoặc chồng của người đứng tên tài sản thế chấp vào tham gia tố tụng khi giải quyết tranh chấp tín dụng, mặc dù tài sản được thế chấp hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Thực tiễn, nhiều trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) đứng tên một người (vợ hoặc chồng) và chỉ người này ký thế chấp vay vốn, nên Tòa án chỉ đưa người đó vào vụ án mà bỏ sót người kia. Việc bỏ sót này ảnh hưởng đến quyền lợi của người không được tham gia (vì họ có đóng góp, công sức tạo lập tài sản hoặc có thỏa thuận tài sản chung, riêng) và đã dẫn tới nhiều vụ án bị hủy do vi phạm tố tụng.
Trong trường hợp trên, Kiểm sát viên cần kiểm sát và lưu ý, khi tài sản thế chấp được xác lập trong thời kỳ hôn nhân nhưng đứng tên một người, thì phải kiểm tra kỹ chế độ tài sản vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình (“Luật HN&GĐ”). Cụ thể, Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 và Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định về các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân(thậm chí có trường hợp phải áp dụng Điều 15 Luật HN&GĐ 1959 đối với tài sản rất cũ).
Ngoài ra, cần rà soát những quy định có liên quan để xác định nguồn gốc hình thành tài sản, tài sản nhận chuyển nhượng hay được tặng cho, được thừa kế, nếu đứng tên riêng thì xem xét những thỏa thuận về tài sản riêng của vợ hoặc chồng; những tài liệu, chứng cứ kèm theo; trường hợp cần thiết phải xác minh hồ sơ cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất để xem xét về nguồn gốc hình thành tài sản. hải xác minh nguồn gốc tạo lập tài sản, xem có thỏa thuận là tài sản riêng hay không, và thu thập chứng cứ cần thiết (ví dụ hồ sơ cấp sổ đỏ, mua bán tài sản,....). Trên cơ sở đó, Tòa án bắt buộc đưa người chồng hoặc vợ còn lại (người không đứng tên) vào tham gia tố tụng với tư cách đương sự, để giải quyết toàn diện, triệt để vụ án.
Đình chỉ giải quyết vụ án do doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể không đúng
Một số Tòa án khi thấy bị đơn là doanh nghiệp đã chấm dứt hoạt động hoặc giải thể thì cho rằng vụ án không còn điều kiện thụ lý, rồi ra quyết định đình chỉ giải quyết. Cách làm này là không đúng quy định, bởi lẽ doanh nghiệp tuy giải thể nhưng quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp này chưa tự động chấm dứt hoàn toàn.
Trong trường hợp trên Kiểm sát viên cần kiểm sát và lưu ý, điểm a khoản 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2015 đã quy định rõ:
“Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;”.
Theo quy định này, khi doanh nghiệp đã giải thể hoặc chấm dứt, cần xác định người kế thừa nghĩa vụ của doanh nghiệp đó để yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.
Đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện do bị đơn thay đổi địa chỉ không đúng
Trong nhiều vụ việc, bên vay cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ bằng cách thay đổi địa chỉ trụ sở, chi nhánh hoặc ngừng hoạt động mà không thông báo cho Ngân hàng. Ngân hàng khởi kiện theo địa chỉ đã biết (như ghi trong HĐTD), nhưng không tống đạt được do bị đơn đã rời đi. Một số Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ vụ án với lý do “không xác định được địa chỉ bị đơn”. Cách xử lý này là không đúng quy định, bởi lẽ nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ hợp pháp thì Tòa án phải có biện pháp tố tụng phù hợp chứ không thể từ chối giải quyết.
Trong trường hợp trên, Kiểm sát viên cần lưu ý áp dụng điểm e, khoản 1, Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và khoản 2, Điều 5 Nghị quyết số 04/2017 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao. Nếu có dấu hiệu bị đơn “cố tình giấu địa chỉ” nhằm chiếm đoạt khoản vay, cần xem xét dấu hiệu hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 174, 175 Bộ luật Hình sự 2015. Trường hợp chưa đủ yếu tố hình sự, vẫn phải kiểm sát việc Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự (thông qua thủ tục niêm yết để xét xử vắng mặt hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi có yêu cầu của các đương sự) chứ không được đình chỉ vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện.
Bỏ sót thành viên hộ gia đình có quyền đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đứng tên “hộ gia đình”
Tòa án không đưa đầy đủ các thành viên của hộ gia đình vào tham gia tố tụng trong vụ án khi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất (và tài sản gắn liền với đất) đứng tên hộ gia đình. Điều này khá phổ biến, dẫn đến nhiều bản án, quyết định bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng.
Đối với những trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý, để xác định có bao nhiêu người trong hộ gia đình thực sự có quyền về tài sản, cần lưu ý không chỉ căn cứ vào nội dung GCNQSDĐ, sổ hộ khẩu, mà cần xác định những ai thực sự là thành viên hộ có chung quyền sử dụng đất tại thời điểm được cấp đất. Phải kiểm sát việc Tòa án thu thập chứng cứ xác định rõ thành viên hộ tại thời điểm cấp đất hoặc nhận chuyển nhượng, để đưa họ vào vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc đưa đầy đủ thành viên hộ gia đình giúp giải quyết dứt điểm tranh chấp và tránh sót quyền lợi của họ.
Việc xác định thời hiệu khởi kiện
Khi giải quyết tranh chấp HĐTD, việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án có còn hay không, có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án đúng quy định. Nhiều trường hợp Tòa án áp dụng máy móc thời hiệu khởi kiện, dẫn đến từ chối thụ lý hoặc đình chỉ vụ kiện đòi nợ quá hạn, gây thiệt hại quyền lợi của bên cho vay.
Vấn đề này, Kiểm sát viên lưu ý tính đặc thù về thời hiệu giải quyết loại án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” mặc dù Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 quy định chung về “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Cần lưu ý rằng khoản 2 Điều 155 BLDS 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trừ trường hợp luật khác quy định. Tranh chấp HĐTD thực chất là yêu cầu thanh toán nợ và xử lý tài sản bảo đảm – tức bảo vệ quyền sở hữu tài sản (quyền thu hồi nợ, quyền phát mại tài sản) của tổ chức tín dụng. Do vậy, thời hiệu khởi kiện 3 năm không được áp dụng cho yêu cầu này.
Xác định việc phạt vi phạm không đúng
Nhiều hợp đồng tín dụng có thỏa thuận về phạt vi phạm đối với việc quá hạn của hợp đồng ngoài việc chuyển sang nợ quá hạn. Về bản chất, đây là khoản phạt quá hạn; khi phát sinh tranh chấp, nhiều Tòa án căn cứ thỏa thuận tại HĐTD đã công nhận điều khoản này, điều này là không đúng dẫn đến bản án không đúng và bị cấp trên sửa, hủy.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý hiện nay, không có quy định pháp luật cho phép phạt hai lần đối với cùng một vi phạm trong quan hệ tín dụng. Điều 12 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã nêu rõ nguyên tắc “chỉ xử lý một lần đối mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”.
Do đó, nếu các bên đã thỏa thuận lãi suất quá hạn (ví dụ 150% lãi trong hạn) để xử lý việc trả nợ muộn, thì không được tính thêm khoản phạt chậm trả riêng trên tiền lãi chậm. Tòa án cần tuyên vô hiệu những thỏa thuận phạt vi phạm trùng lắp này. Việc xác định đúng sẽ đảm bảo bên cho vay chỉ được áp dụng chế tài một lần cho hành vi chậm trả, tránh tình trạng “phạt chồng phạt” không phù hợp quy định.
Vi phạm về việc không xác định lãi suất theo thỏa thuận và không áp dụng việc điều chỉnh lãi suất theo HĐTD
Trong một số HĐTD, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: Lãi suất cho vay trong hạn, Lãi suất nợ quá hạn... Tuy nhiên, Tòa án khi tuyên án đã không áp dụng đúng lãi suất thỏa thuận trong HĐTD. Có trường hợp tòa tuyên rằng kể từ sau ngày xử sơ thẩm, bên phải thi hành án chỉ chịu lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, thay vì lãi suất theo hợp đồng là không đúng, dẫn đến nhiều bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn, lãi nợ quá hạn theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong HĐTD cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Chỉ khi hợp đồng không thỏa thuận mức lãi suất, tòa án mới áp dụng mức lãi suất mặc định theo khoản 2 Điều 468 BLDS 2015. Trường hợp các bên thỏa thuận việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của TCTD thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của TCTD. Tóm lại, Tòa án cần tuân thủ đúng thỏa thuận lãi suất của các bên, tránh tự ý ấn định lãi suất khác làm ảnh hưởng quyền lợi các bên và vi phạm pháp luật.
Về căn cứ xác định cách tính khoản tiền lãi kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm
Trước đây, Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 hướng dẫn rằng:
“kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này”.
Tuy nhiên, khi Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực, cách tính lãi sau xét xử sơ thẩm đã được hướng dẫn đầy đủ, cụ thể hơn. Theo điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019:
“a) Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.”
Vì vậy, khi kiểm sát việc quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án đối với loại án về tranh chấp HĐTD, Kiểm sát viên cần chú ý áp dụng chính xác và đầy đủ văn bản pháp luật hướng dẫn về cách tính khoản tiền lãi này.
KSV cần chú ý áp dụng chính xác và đầy đủ văn bản pháp luật hướng dẫn cách tính khoản tiền lãi
Không xem xét việc thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp
Một số Tòa án không tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp khi giải quyết vụ án, với lý do “không có ai yêu cầu” hoặc cho rằng giai đoạn xét xử trước (đã hủy án) từng thẩm định rồi nên không cần làm lại. Việc không thẩm định tại chỗ này là vi phạm tố tụng theo Điều 101 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, dẫn tới bản án, quyết định bị hủy ở cấp giám đốc thẩm do chưa xem xét đầy đủ chứng cứ.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý: Trường hợp Tòa án không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ vì các lý do trên, Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định lại tài sản, vì qua thời gian, tài sản có thể có những biến động, như có sự thay đổi về tài sản trên đất, người quản lý tài sản...
Việc tuyên hợp đồng thế chấp bị vô hiệu không đúng
Tình huống điển hình là trên thửa đất thế chấp có nhiều tài sản gắn liền với đất, trong đó có tài sản thuộc sở hữu người thế chấp và cũng có tài sản của người khác, nhưng hợp đồng chỉ thế chấp phần thuộc sở hữu của người thế chấp. Khi giải quyết, Một số Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp (HĐTC) vô hiệu toàn bộ hoặc một phần một cách không chính xác, mặc dù nội dung và hình thức HĐTC phù hợp pháp luật.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý: HĐTC được ký kết tự nguyện, được công chứng, chứng thực, tài sản đã được TCTD xem xét, thẩm định và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định, thì không vì những lý do như có tài sản phát sinh trên đất tranh chấp, giao dịch về tài sản trước đó bị vô hiệu để xác định vô hiệu, mà phải công nhận hiệu lực của HĐTC theo quy định tại Điều 325 BLDS 201 về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất, Điều 326 BLDS về thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất, Điều 133 BLDS về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
Xác định việc thế chấp tài sản của bên thứ ba vô hiệu không đúng
Đây là trường hợp người thứ ba dùng tài sản của mình bảo đảm cho khoản vay của người khác (thế chấp tài sản bên thứ ba). Một số cơ quan tố tụng cho rằng hình thức này thực chất là hợp đồng bảo lãnh, do đó nếu không lập hợp đồng bảo lãnh riêng thì hợp đồng thế chấp bên thứ ba sẽ vô hiệu. Cách hiểu khác lại cho rằng bảo lãnh thường không chỉ định tài sản cụ thể, nếu có chỉ định tài sản thì giao dịch phải là cầm cố/thế chấp, nên nếu gọi là “bảo lãnh bằng tài sản” thì hợp đồng thế chấp đó không phù hợp và vô hiệu. Những nhận thức này là không đúng với quy định của BLDS.
Đối với trường hợp này Kiểm sát viên cần lưu ý chú trọng nội dung thỏa thuận hơn là hình thức tên gọi hợp đồng. BLDS 2015 cho phép và công nhận việc dùng tài sản của bên thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ cho bên vay. Theo khoản 1 Điều 335 BLDS 2015, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện. Đồng thời, khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 quy định: các bên có thể thỏa thuận dùng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, thỏa thuận xử lý tài sản của bên thứ ba phù hợp với quy định này thì thỏa thuận vẫn có hiệu lực và không bị tuyên vô hiệu.
Vi phạm do vượt quá phạm vi bảo đảm cho khoản tiền vay
Trường hợp bên thế chấp chỉ đồng ý bảo đảm khoản vay trong một phạm vi nhất định, nhưng sau đó tài sản của họ lại bị xử lý cho một khoản nợ vượt quá phạm vi đó. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, Tòa án không xem xét kỹ trường hợp này, mà áp dụng theo các HĐTC thông thường không bị giới hạn phạm vi thế chấp tài sản là không đúng quy định.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý: Phải xem xét kỹ thỏa thuận giới hạn phạm vi bảo đảm trong hợp đồng thế chấp hoặc văn bản ủy quyền cụ thể và xem xét trình bày của đương sự về phạm vi bảo đảm. Nếu tài sản chỉ bảo đảm đến một mức tiền nhất định, thì phần nghĩa vụ vượt quá đó không được bảo đảm bằng tài sản và chủ tài sản không phải chịu trách nhiệm.
Hủy toàn bộ bản án, quyết định không đúng
Ở cấp phúc thẩm, có trường hợp hủy toàn bộ bản án sơ thẩm một cách không cần thiết, mặc dù sai sót chỉ nằm ở một phần của vụ án. Đối với tranh chấp HĐTD, thường có hai phần độc lập: phần nợ vay và phần tài sản bảo đảm. Thực tiễn có vụ, Tòa án cấp dưới giải quyết đúng phần nợ vay, chỉ sai ở phần tài sản bảo đảm; lẽ ra cấp trên chỉ cần hủy phần quyết định về tài sản đảm bảo, nhưng lại tuyên hủy toàn bộ bản án, dẫn đến vụ án bị hủy ở cấp giám đốc thẩm để giải quyết lại. Việc hủy toàn bộ như vậy bị xem là không đúng, làm kéo dài thời gian giải quyết không cần thiết.
Trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý: Đa số tranh chấp HĐTD, thường Tòa án giải quyết hai phần, phần tranh chấp khoản tiền vay (gồm gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, các khoản phí) và phần xử lý tài sản bảo đảm.
Đây là hai phần độc lập không ảnh hưởng đến việc giải quyết, nếu sai sót của cấp sơ thẩm không ảnh hưởng đến toàn bộ vụ án thì chỉ hủy một phần bản án. Do đó Tòa án cấp trên chỉ tuyên hủy một phần bản án, quyết định, không hủy toàn bộ bản án, quyết định.
Vụ án có dấu hiệu hình sự nhưng vẫn giải quyết theo tố tụng dân sự
Một số tranh chấp tín dụng có dấu hiệu tội phạm chẳng hạn, có trường hợp bên vay lừa dối: sau khi đã bán tài sản cho người khác vẫn mang tài sản đó đi thế chấp ngân hàng. Những hành vi này có thể cấu thành tội phạm như Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS 2015), Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). Thế nhưng, một số Tòa án vẫn giữ vụ việc lại để xử lý dân sự, kết quả là bản án, quyết định sau đó bị cấp trên hủy, sửa do sai về tố tụng.
Trong trường hợp này Kiểm sát viên cần lưu ý: Trong vụ án về tín dụng có dấu hiệu hình sự thì cần phải kiên quyết yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra xem xét, giải quyết theo đúng quy định.
Nếu có bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ chúng tôi qua các hình thức sau:
Hotline gặp Luật sư tư vấn trực tiếp: 1900 2929 01
Nhập thông tin đăng ký tư vấn luật tại đây: https://luatsulh.com/dang-ky-tu-van.html
Liên hệ đặt lịch hẹn qua zalo số: 0903 796 830
Website: https://luatsulh.com/
Trụ sở: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh (Địa chỉ cũ: 288 B7 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM)
Chi nhánh Nha Trang: 07 Bế Văn Đàn, Phường Nam Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa (Địa chỉ cũ: 07 Bế Văn Đàn, Phường Phước Long, Thành phố Nha Trang)
Theo dõi Công ty Luật LHLegal tại:
Website: https://luatsulh.com/
Facebook: Luật sư LHLegal
Youtube: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hoà: Luật sư Hoà (LHLegal)
Kênh Tiktok Công ty: Luật sư LHLegal
Kênh Tiktok Luật sư Hình sự: Luật sư Hình sự
![]() |
![]() |
Bộ Công an phản hồi về đề xuất ngân hàng được thu giữ tài sản bảo đảm (09.04.2025)
Nguy cơ và giải pháp tuân thủ quyết định phong tỏa tài khoản từ phía ngân hàng (09.04.2025)
Trách nhiệm của Ngân hàng khi không tuân thủ quyết định phong tỏa dẫn đến tẩu tán tài sản (09.04.2025)
Tranh chấp Hợp đồng bảo đảm khi tài sản bảo đảm bị tranh chấp - Ngân hàng cần làm gì? (09.04.2025)
Doanh nghiệp cần lưu ý gì khi dùng tài sản bảo đảm cho nhiều khoản vay? (09.04.2025)
Xử lý tài sản bảo đảm cho nhiều khoản vay: Quy định pháp luật và rủi ro doanh nghiệp cần lưu ý (09.04.2025)
Xử lý tài sản bảo đảm khi bảo lãnh vay vốn: Rủi ro và lưu ý pháp lý (09.04.2025)
Bảo lãnh vay vốn là gì? Quy định pháp luật và những điều cần biết (09.04.2025)